soi_tucach

New Member

Download miễn phí Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng





MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TỪ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 5
1.1. Sự ra đời và tình hình hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần 5
1.2. Những rào cản và những vấn đề đặt ra sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại Đà Nẵng 29
Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 49
2.1. Phương hướng khắc phục những tồn tại, vướng mắc 49
2.2. Một số giải pháp khắc phục những tồn tại sau cổ phần hoá ở các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến 51
KẾT LUẬN 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

thêm quyền làm chủ với tư cách là cổ đông còn đang rất là mới mẻ, nhiều người chưa hình dung thực chất ra sao, liệu DN có khá lên hay khó khăn hơn, trong khi chính sách, quan niệm đang biểu hiện đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, đối với người lao động bỏ vốn đầu tư mua cổ phần trong khi nhiều nhu cầu chi tiêu khác của mỗi gia đình đang thôi thúc hàng ngày và “sức ỳ” của nếp sống làm việc trong DNNN có lẽ là khó khăn chủ yếu khi chuyển sang cổ phần hoá DNNN.
- Sự chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo địa phương thiếu sự đồng bộ và kiên quyết khi tiến hành CPH:
Sự không thống nhất trong chính sách về CPH DNNN cùng với thiếu kiểm tra, giám sát và kịp thời chấn chỉnh của Chính phủ, các Bộ, Ngành cũng như các cơ quan chức năng của địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai CPH DNNN ở địa phương. Vì vậy, đã có biểu hiện tuỳ tiện hay làm chậm trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương CPH ở một số DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng. Mặt khác, tiến trình CPH chưa đặt đúng mức chưa gắn chặt trong chương trình tổng thể về cơ cấu sắp xếp lại khu vực DNNN, do đó việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp của Thành phố còn thiếu kiên quyết, phân cấp, phân quyền còn hạn chế, kéo dài thời gian chờ đợi giải quyết. Vấn đề chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần là vấn đề mới lại liên quan đến nhiều lĩnh vực tài chính, lao động, sở hữu, hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể vì vậy cán bộ của các ngành được phân công làm làm nhiệm vụ này còn lúng túng. Trong khi đó thủ tục quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp cứng nhắc, chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính. Nhiều nơi, cán bộ công chức còn có biểu hiện gây phiền cho DN, thiếu thống nhất trong chỉ đạo thực hiện, các văn bản pháp lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chậm, chưa nhất quán, chưa thật sự đồng bộ dẫn đến việc vận dụng còn nhiều vướng mắc. Từ quá trình xây dựng đến thực hiện đề án còn bộc lộ tình trạng chưa sát với thực tế, thiếu sự kết hợp giữa ngành với lãnh thổ. Không ít nơi thiếu dân chủ bàn bạc đối với doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay công tác CPH còn mang tính chất dàn đều, phong trào mà chưa được xem xét thấu đáo về khía cạnh chuyên môn, chuyên ngành hoạt động, phạm vi và khả năng của doanh nghiệp. Vấn đề CPH các doanh nghiệp để lấy số lượng mà coi nhẹ chất lượng doanh nghiệp còn khá phổ biến. Công tác phối kết hợp giữa các cơ sở, ban, ngành còn chưa chặt chẽ trong công tác thẩm định phương án cổ phần, xác định doanh nghiệp có thể CPH là những vấn đề khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp sau CPH
1.2.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc xảy ra sau cổ phần hoá
1.2.2.1 Quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần
Nhận thức về mối quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần chưa thật rõ ràng, nhất là doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50%, hơn nữa đa số cổ đông là người lao động trực tiếp từ trước đến nay nên ranh giới giữa công ty cổ phần và DNNN vẫn còn nhiều cổ đông chưa thật sự nắm rõ. Đa số cổ phần bán ra thuộc về người lao động của DNNN cũ, trong các doanh nghiệp này sau CPH còn nhiều trường hợp các cổ đông là người lao động không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty. Không ít cổ đông vẫn có tâm lý e dè trước lãnh đạo doanh nghiệp nhất là khi đề cập đến vấn đề chất vấn, bãi miễn các chức vụ lãnh đạo do vẫn còn quan niệm về vị trí, vai trò của mình như trong DNNN trước kia. Điều đó cho thấy tình trạng làm chủ “hình thức” của người lao động và các cổ đông trong doanh nghiệp sau CPH vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Một số quyền cơ bản và hợp pháp của cổ đông tại nhiều doanh nghiệp CPH còn chưa được đảm bảo, trước hết là quyền thông tin, dẫn đến hầu hết các cổ đông nhỏ cảm giác bị đứng ngoài công ty, quan hệ giữa cổ đông và công ty trở thành quan hệ giữa người vay và người cho vay vốn. Ngoài ra, quy định pháp lý hiện hành cho phép người lao động được chia cổ phần hưởng lợi tức, được thừa kế, nhưng không được sở hữu. Như vậy, người lao động không phải là cổ đông đầy đủ theo đúng nghĩa của nó.
Ngược lại với hiện tượng trên, ở một số doanh nghiệp sau khi CPH do ngộ nhận, đánh đồng không phân biệt rõ vị thế của cổ đông - sở hữu cổ phần - làm chủ doanh nghiệp với vị thế của người lao động trực tiếp chịu sự điều hành theo kỷ luật lao động và cơ chế, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, của lãnh đạo doanh nghiệp cho nên nhiều người lao động - cổ đông trong doanh nghiệp đã có những hành vi “dân chủ quá trớn”. Để đảm bảo quyền làm chủ của mình, những người này mặc dù có nơi chỉ chiếm chưa đến 1% cổ phần doanh nghiệp cũng để mắt và có ý kiến tới mọi chuyện, tranh đấu, chất vấn quyết liệt với các quyết định điều hành của Ban giám đốc doanh nghiệp. Đến mức DNNN sau CPH, Ban giám đốc doanh nghiệp mỗi khi đưa ra quyết định mua sắm, chi tiêu quá 100 ngàn đồng cũng đều phải họp xin ý kiến từng việc rất căng thẳng, hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường kinh doanh hiện nay rất cần phản xạ nhanh, quyết định nhanh để chớp lấy thời cơ. Vậy một DNNN sau khi CPH mà có tới hàng trăm ông chủ ngang quyền nhau và đều đòi hỏi điều hành doanh nghiệp như một giám đốc cũng sẽ dẫn đến không hiệu quả, tựa như một DNNN hoạt động theo tinh thần làm chủ tập thể mà Nhà nước là thay mặt duy nhất trước khi CPH.
1.2.2.2. Về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống kinh doanh của các công ty cổ phần
Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi CPH đều tiến hành tổ chức và hình thành bộ máy quản lý của mình theo quy định của Luật doanh nghiệp, nhân sự được sắp xếp lại tinh gọn hơn, phù hợp với chuyên môn được đảm nhận. Tuy nhiên về hoạt động của bộ máy trong không ít doanh nghiệp thì dường như lại chưa đạt mục tiêu khắc phục yếu kém trong cách điều hành của DNNN, cụ thể là:
Thứ nhất: Bộ máy không đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH vẫn dùng nguyên bộ máy cũ, chỉ đưa một số vị trí lên, vẫn còn có hiện tượng đội ngũ cán bộ quản lý ít được đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH, Giám đốc cũ thành Chủ tịch Hội đồng quản trị, Phó giám đốc thành giám đốc doanh nghiệp mới. Hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sau CPH sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Nguyên nhân là do bán cổ phần chủ yếu cho nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là những cổ đông bên ngoài doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết sách và quản trị doanh nghiệp. Việc bộ máy tổ chức ít thay đổi dẫn đến tư duy, trình độ quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng ít thay đổi, do vậy hiệu quả quản lý cũng chưa được nâng cao. Điều đó cũng cho thấy, các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cũng chưa phát huy ưu điểm của mô hình m...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top