midu_hamhamkute
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
NỘI DUNG
I- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS
1- Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc không phải là cái tự nhiên sinh ra mà là kết quả của cả một quá trình phát triển và thích ứng với các điều kiện khách quan. Mặc dù từ điển tiếng việt có định nghĩa nguyên tắc là “điều cơ bản đã định ra cần hải tuân theo trong 1 loạt việc làm” nhưng nguyên tắc đó sẽ nhanh chóng bị thay đổi nếu nguyên tắc đó không phù hợp với quy luật khách quan. Bởi vậy, nguyên tắc phải là kết quả của quá trình nhận thức nghiên cứu thực tế khách quan.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau có những nguyên tắc khác nhau, nó trở thành những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Trong phương diện pháp luật nó chung và pháp luật TTDS nói riêng có quy định: “ Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và ghi nhận trong các văn bản pháp luật.”
Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hay chấm đứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Nhưng sự tự định đoạt của đương sự không phải được thể hiện 1 cách tùy tiện mà phải thự hiện trong khuiin khổ theo quy định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến, tạo tiền để cho quyền của đương sự được đảm bảo.
Cụ thể, nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện trong BL TTDS như sau:”1. Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hay thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”( Điều 5 BLTTDS 2004). Như vậy quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định tham gia tố tụng dân sự, tự quyết dịnh quyền và lợi ích của họ trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2- Cơ sở của nguyên tăc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
a) Cơ sở lý luận:
Theo quan điểm của PGS. TS Phạm Hữu Nghị: “Quyền tự định đoạt trong quy định trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự”. Quyền tự định đoạt của đương sự trong dân sự bao gồm các nguyên tắc: Nguyên tắc tự do, tự cam kết, thỏa thuận( Điều 4 BLDS) Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền dân sự( Điều 9 BLDS) Nguyên tắc hòa giải ( Điều 12 BLDS). Trong TTDS nguyên tắc quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể thấy rằng nguyên tắc quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là cac quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, nguyên tắc quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Ðương sự có quyền tự bảo vệ hay nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.”. Như vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và muốn việc đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự thì cần có những quy định giúp đương sự thực hiện tốt điều này. Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu câu…Nếu không có quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy quy đinh về quyền tự định đoạt của đương sự tại điều 5 BLTTDS là rất cần thiết.
Mặt khác, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu tòa án muốn giả quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định. Chính vì lẽ đó pháp luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm phạm. Cụ thể, đương sự( cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, khách quan hơn.
b) Cơ sở thực tiễn
Về tính chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm như vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chư đến mưc bị coi là tội phạm. Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự của mình. Và tòa án chỉ đươc giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì tòa án cần tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
II- Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt cả đương sự trong TTDS
1- Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS 2004 đương sự có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Theo điều 61 BLTTDS 2004 người có quyền và lợi ích quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn.
a) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết dân sự
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại điều 161: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hay thông qua người thay mặt hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”. Bên cạnh đó tại Điều162 BLTTDS 2004 quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước do các cơ quan tổ chức thực hiện. Như vậy, nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu tòa án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác khi họ cảm giác quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm trong lúc tham gia các quan hệ pháp luật dâ sự. Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những quyền quan trọng của các chủ thể khi tham gia tố tụng dân sự. Bởi vì tòa án dân sự chỉ thực hiện hoạt động xét xử khi có yêu cầu khởi kiện của các đương sự, quyền tự định đoạt của đương sự có thể được xem là cơ sở đầu tiên để tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Như ta đã biết, việc dân sự không mang tính chất tranh chấp như vụ án dân sự mà phần lớn là yêu cầu hay bác bỏ quyền lợi nào đó. Vì vậy, chỉ tồn tại khái niệm người yêu cầu và người bị yêu cầu thay thế cho nguyên đơn và bị đơn. Người yêu cầu là người chủ động đưa yêu cầu về giải quyết vụ việc dân sự và khi tham gia hoạt động tố tụng họ được chủ động như nguyên đơn để bảo vẹ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng phạm vi yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý là phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ. Điều này đã góp phần bổ sung thêm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức khi mà họ cảm giác quyền và lợi ích của mình chưa đúng hay chưa đủ và mức độ chưa tới mức trở thành tranh chấp.
Các quy định trên của BLTTDS đã thể hiện được quan tâm của Nhà nước đối với mỗi cá nhân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhưng sự quan tâm vẫn dựa trên nguyên tắc tôn trọng và không can thiệp vào cuộc sống riêng, Nhà nước chỉ trao quyền và người quyết định vẫn là mỗi cá nhân khi họ bị xâm phạm, chỉ trong 1 số trường hơp đặc biệt thì các cá nhân, tổ chức không bị xâm phạm hay người thay mặt hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ án một cách kịp thời sẽ giúp các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.
b)Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Việc khởi kiện của nguyên đơn như đã phân tích nói trên thể hiện được quyền tự định đoạt của nguyên đơn. Nhưng không phải lúc nào việc khởi kiện đó cũng đúng, và trong nhiều trường hợp khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn lại cảm giác quyền lợi của mình bị xâm phạm. Do đó BLTTDS 2004 đã quy định thêm quyền phản tố của bị đơn, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS có quy định như sau: “ Ðưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hay đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. Ngoài ra bị đơn còn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Có thể là bác bỏ về nội dung( khi bị đơn đưa ra lập luận không có căn cứ yêu cầu khởi kiện như nguyên đơn nêu trong đơn xảy ra trong thực tế); bác bỏ về tố tụng( khi bị đơn chứng minh yêu cầu của nguyên đơn đã vi phạm thủ tục tố tụng). Như vây, BLTTDS 2004 không chỉ ghi nhận quyền tự định đoạt cảu nguyên đơn mà còn ghi nhận quyền tự định đoạt của bị đơn. Đây là một điểm quan trọng và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các công dân khi tham gia quan hệ dân sự.
c) Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
Khái niệm người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTDS 2004 và họ cũng có quyền thể hiện sự tự định đoạt của mình được quy định tại điều 177 BLTTDS 2004. Theo đó, trong trường hợp người có quyền, nghĩa vụ không liên quan đến nguyên đơn hay bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện nhất đinh. Trong vụ án dân sự lợi ích hợp pháp của người có quyền và lợi ích liên quan tham gia tố tụng độc lập với lơi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn.Việc cho người có quyền, nghĩa vụ được tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khi đáp ứng được những điều kiện nhất định cũng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của những người này, tránh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới 1 vụ việc dân sự đã xét xử nhiều lần.
2) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu và thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự.
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu
Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự, nhưng trong quá trình giải quyết nguyên đơn có thể muốn bổ sung hay sửa đổi yêu cầu của mình. Nhưng tùy vào từng giai đoạn tố tụng mà yêu cầu đó được chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối( tức là trong giai đoạn này BLTTDS không giới hạn phạm vi thay đổi, yêu cầu, bổ sung của nguyên đơn). Nhưng sau khi mở phiên tòa sơ thẩm việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu(Điều 218 BLTTDS 2004). Mục 6 phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP ngày 12/05/2006 có quy định: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...”Ví dụ: Ban đầu nguyên đơn khởi kiện về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng, tại phiên tòa nguyên đơn có thể rút mứt yêu cầu, chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hai sẽ được chấp nhận. Nhưng không phải nguyên đơn là người duy nhất có quyền thể hiện ý chí trong giai đoạn này mà quyết định của bị đơn và người cói quyền và lợi ích liên quan cũng sẽ ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển của vụ việc dân sự.
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thế được tòa án chấp nhận . Theo nguyên tắc chung, rút đơn khởi kiện, yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người được yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu( dựa trên mặt nội dung) và sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng.
Nguyên đơn có thể rút 1 phần yêu cầu hay rút toàn bộ yêu cầu( điểm b khoản 1 Điều 59). Trước phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên tòa, thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án( điểm c khoản 1 Điều 192). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bị đơn rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đã rút( khoản 2 Điều 218).
Người yêu cầu trong việc dân sự có thể rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự trường hợp người yêu cầu rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình và yêu cầu đó là tự nguyện thì tòa án chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn kiện, yêu cầu trước khi mở vài tại phiên tòa phuc thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự, để bảo đảm lợi ích hợp pháp của 2 bên đương sự. Điều 269 BLTTDS 2004 Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy vào từng trường hợp mà ra quyết định. Trong trường hợp này đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án sơ thẩm và phải chịu nửa án phí phúc thẩm.
Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự là những quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự. Nhưng việc thay đổi, bổ sung, rút yêu có được tòa án chấp nhận hay không phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của chủ thể. Theo đó ý chí cũng như quyền tự dịnh đoạt của đương sự được thể hiện một cách đầy đủ.
b) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thận giải quyết vụ việc dân sự.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hòa giải với nhau.Điều này xuất phát từ bản chất quan hệ dân sự, các bên bình đẳng với nhau, tự do cam kết, xác lập thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong TTDS thỏa thuận mang ý nghĩa quan trọng, bởi vụ việc dân sử được tòa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, đương sự với tư cách 2 bên tham gia TTDS nếu cảm giác sau khi hòa giải quyền lợi của mình đã được bảo đảm thì phiên tòa hay phiên họp giải quyết sẽ không còn ý nghĩa, nếu tiếp tục xét xử thì vừa tốn kém lại có thể không đem lại kết quả như mong muốn của các chủ thể. BLTTDS 2004 đã tạo ra 1 khung pháp lý quan trọng về vấn đề này khi quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Mọi tác động bên ngoài ý chí của chủ thể dều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận“ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”( điểm a khoản 2 Điều 180). Việc hòa giải của các đương sự cần kể tới vai trò quan trọng của tòa án trong việc tạo điều kiện và giải quyết những vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của đương sự và tòa án phải tuân theo các quy định của pháp luật. Nhưng người quyết định vẫn là các đương sự.
Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS tại phiên tòa so thẩm, Hội đồng xét xử sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, nếu đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận việc thỏa thuận của đương sự. Trong giai đoạn phúc thẩm, tuy BLTTDS không quy đinh tòa án cấp phú thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nhưng nếu tại tòa phú thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhauvề việc giải quyết vụ án( tự nguyện, không trái đạo đức xã hội) Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sủa bản án sơ thẩm, công nhận sự hòa giải của các đương sự( Mục 5.1 , phần III Nghị quyết 05/2005/NQ- HĐTP)
Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thỏa thuận ở quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền tụ thỏa thuận không thông qua tòa án, trong trường hợp Tòa án không phải người chủ động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự khỏa thuận với nhau
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trong đó vai trò của đương sự luôn được đề cao trông tất cả các giai đoạn tố tụng. Công dân có quyền tự bảo vệ mình trong khuôn khổ pháp luật và đạt được kết quả phù hợp nhất đối với đương sự và xã hội. Đồng thời, nguyên tắc này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sóng và làm theo pháp luật trong nhân dân.
3) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của tòa án
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung quyền tự định đoạt của đương sự. Để bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của mình các đương sự thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là người thay mặt theo ủy quyền của đương sự( Khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004). Việc thay mặt theo ủy quyền này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự. Đương sự có thể ủy quyền cho người thay mặt thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, sau khi ủy quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người đại diện.
Theo quy định tại Điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự có quyền nhờ luật sư hay người khác mà tòa án châp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 63 BLTTDS . Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi, chám dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự do 2 bên quyết định. Như vây, một lần nữa quyền tự định đoạt của đương sự lại được thể hiện. Tất cả đều hướng tới lợi ích của đương sự.
b) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của tòa án.
Kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự , được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì đương sự được tự quyết định việc thực hiện quyền này. Điều đó đã gián tiếp khảng định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cao vụ án đã xét xử sơ thẩm. Ngoài ra BLTTDS còn quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu bắt đầu phiên tòa tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu.
4) Trách nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
Bên cạnh các quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng, quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong BLTTDS cũng quy định rố trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Cụ thể là tòa án chỉ được quyền thụ lý, giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Đây là điều hoàn toàn khác với TTHS, cũng thể hiện rõ sự tôn trọng của Nhà nước đối với quyền tự định đoạt của đương sự.
Bên cạnh đó Tòa án trong các giai đoạn tố tụng đều luôn thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự từ việc thỏa thuận, thay đổi,bổ sung, rút đơn yêu cầu…của đương sự. Đảm bảo quyền tự định đoạt triệt để nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
NỘI DUNG
I- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS
1- Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc không phải là cái tự nhiên sinh ra mà là kết quả của cả một quá trình phát triển và thích ứng với các điều kiện khách quan. Mặc dù từ điển tiếng việt có định nghĩa nguyên tắc là “điều cơ bản đã định ra cần hải tuân theo trong 1 loạt việc làm” nhưng nguyên tắc đó sẽ nhanh chóng bị thay đổi nếu nguyên tắc đó không phù hợp với quy luật khách quan. Bởi vậy, nguyên tắc phải là kết quả của quá trình nhận thức nghiên cứu thực tế khách quan.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau có những nguyên tắc khác nhau, nó trở thành những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Trong phương diện pháp luật nó chung và pháp luật TTDS nói riêng có quy định: “ Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và ghi nhận trong các văn bản pháp luật.”
Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hay chấm đứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Nhưng sự tự định đoạt của đương sự không phải được thể hiện 1 cách tùy tiện mà phải thự hiện trong khuiin khổ theo quy định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến, tạo tiền để cho quyền của đương sự được đảm bảo.
Cụ thể, nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện trong BL TTDS như sau:”1. Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hay thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”( Điều 5 BLTTDS 2004). Như vậy quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định tham gia tố tụng dân sự, tự quyết dịnh quyền và lợi ích của họ trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2- Cơ sở của nguyên tăc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
a) Cơ sở lý luận:
Theo quan điểm của PGS. TS Phạm Hữu Nghị: “Quyền tự định đoạt trong quy định trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự”. Quyền tự định đoạt của đương sự trong dân sự bao gồm các nguyên tắc: Nguyên tắc tự do, tự cam kết, thỏa thuận( Điều 4 BLDS) Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền dân sự( Điều 9 BLDS) Nguyên tắc hòa giải ( Điều 12 BLDS). Trong TTDS nguyên tắc quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể thấy rằng nguyên tắc quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là cac quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, nguyên tắc quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Ðương sự có quyền tự bảo vệ hay nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.”. Như vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và muốn việc đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự thì cần có những quy định giúp đương sự thực hiện tốt điều này. Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu câu…Nếu không có quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy quy đinh về quyền tự định đoạt của đương sự tại điều 5 BLTTDS là rất cần thiết.
Mặt khác, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu tòa án muốn giả quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định. Chính vì lẽ đó pháp luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm phạm. Cụ thể, đương sự( cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, khách quan hơn.
b) Cơ sở thực tiễn
Về tính chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm như vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chư đến mưc bị coi là tội phạm. Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự của mình. Và tòa án chỉ đươc giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì tòa án cần tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
II- Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt cả đương sự trong TTDS
1- Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS 2004 đương sự có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Theo điều 61 BLTTDS 2004 người có quyền và lợi ích quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn.
a) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết dân sự
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại điều 161: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hay thông qua người thay mặt hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”. Bên cạnh đó tại Điều162 BLTTDS 2004 quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước do các cơ quan tổ chức thực hiện. Như vậy, nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu tòa án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác khi họ cảm giác quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm trong lúc tham gia các quan hệ pháp luật dâ sự. Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những quyền quan trọng của các chủ thể khi tham gia tố tụng dân sự. Bởi vì tòa án dân sự chỉ thực hiện hoạt động xét xử khi có yêu cầu khởi kiện của các đương sự, quyền tự định đoạt của đương sự có thể được xem là cơ sở đầu tiên để tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Như ta đã biết, việc dân sự không mang tính chất tranh chấp như vụ án dân sự mà phần lớn là yêu cầu hay bác bỏ quyền lợi nào đó. Vì vậy, chỉ tồn tại khái niệm người yêu cầu và người bị yêu cầu thay thế cho nguyên đơn và bị đơn. Người yêu cầu là người chủ động đưa yêu cầu về giải quyết vụ việc dân sự và khi tham gia hoạt động tố tụng họ được chủ động như nguyên đơn để bảo vẹ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng phạm vi yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý là phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ. Điều này đã góp phần bổ sung thêm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức khi mà họ cảm giác quyền và lợi ích của mình chưa đúng hay chưa đủ và mức độ chưa tới mức trở thành tranh chấp.
Các quy định trên của BLTTDS đã thể hiện được quan tâm của Nhà nước đối với mỗi cá nhân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhưng sự quan tâm vẫn dựa trên nguyên tắc tôn trọng và không can thiệp vào cuộc sống riêng, Nhà nước chỉ trao quyền và người quyết định vẫn là mỗi cá nhân khi họ bị xâm phạm, chỉ trong 1 số trường hơp đặc biệt thì các cá nhân, tổ chức không bị xâm phạm hay người thay mặt hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ án một cách kịp thời sẽ giúp các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.
b)Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Việc khởi kiện của nguyên đơn như đã phân tích nói trên thể hiện được quyền tự định đoạt của nguyên đơn. Nhưng không phải lúc nào việc khởi kiện đó cũng đúng, và trong nhiều trường hợp khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn lại cảm giác quyền lợi của mình bị xâm phạm. Do đó BLTTDS 2004 đã quy định thêm quyền phản tố của bị đơn, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS có quy định như sau: “ Ðưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hay đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. Ngoài ra bị đơn còn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Có thể là bác bỏ về nội dung( khi bị đơn đưa ra lập luận không có căn cứ yêu cầu khởi kiện như nguyên đơn nêu trong đơn xảy ra trong thực tế); bác bỏ về tố tụng( khi bị đơn chứng minh yêu cầu của nguyên đơn đã vi phạm thủ tục tố tụng). Như vây, BLTTDS 2004 không chỉ ghi nhận quyền tự định đoạt cảu nguyên đơn mà còn ghi nhận quyền tự định đoạt của bị đơn. Đây là một điểm quan trọng và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các công dân khi tham gia quan hệ dân sự.
c) Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
Khái niệm người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTDS 2004 và họ cũng có quyền thể hiện sự tự định đoạt của mình được quy định tại điều 177 BLTTDS 2004. Theo đó, trong trường hợp người có quyền, nghĩa vụ không liên quan đến nguyên đơn hay bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện nhất đinh. Trong vụ án dân sự lợi ích hợp pháp của người có quyền và lợi ích liên quan tham gia tố tụng độc lập với lơi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn.Việc cho người có quyền, nghĩa vụ được tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khi đáp ứng được những điều kiện nhất định cũng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của những người này, tránh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới 1 vụ việc dân sự đã xét xử nhiều lần.
2) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu và thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự.
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu
Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự, nhưng trong quá trình giải quyết nguyên đơn có thể muốn bổ sung hay sửa đổi yêu cầu của mình. Nhưng tùy vào từng giai đoạn tố tụng mà yêu cầu đó được chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối( tức là trong giai đoạn này BLTTDS không giới hạn phạm vi thay đổi, yêu cầu, bổ sung của nguyên đơn). Nhưng sau khi mở phiên tòa sơ thẩm việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu(Điều 218 BLTTDS 2004). Mục 6 phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP ngày 12/05/2006 có quy định: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...”Ví dụ: Ban đầu nguyên đơn khởi kiện về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng, tại phiên tòa nguyên đơn có thể rút mứt yêu cầu, chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hai sẽ được chấp nhận. Nhưng không phải nguyên đơn là người duy nhất có quyền thể hiện ý chí trong giai đoạn này mà quyết định của bị đơn và người cói quyền và lợi ích liên quan cũng sẽ ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển của vụ việc dân sự.
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thế được tòa án chấp nhận . Theo nguyên tắc chung, rút đơn khởi kiện, yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người được yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu( dựa trên mặt nội dung) và sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng.
Nguyên đơn có thể rút 1 phần yêu cầu hay rút toàn bộ yêu cầu( điểm b khoản 1 Điều 59). Trước phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên tòa, thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án( điểm c khoản 1 Điều 192). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bị đơn rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đã rút( khoản 2 Điều 218).
Người yêu cầu trong việc dân sự có thể rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự trường hợp người yêu cầu rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình và yêu cầu đó là tự nguyện thì tòa án chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn kiện, yêu cầu trước khi mở vài tại phiên tòa phuc thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự, để bảo đảm lợi ích hợp pháp của 2 bên đương sự. Điều 269 BLTTDS 2004 Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy vào từng trường hợp mà ra quyết định. Trong trường hợp này đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án sơ thẩm và phải chịu nửa án phí phúc thẩm.
Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự là những quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự. Nhưng việc thay đổi, bổ sung, rút yêu có được tòa án chấp nhận hay không phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của chủ thể. Theo đó ý chí cũng như quyền tự dịnh đoạt của đương sự được thể hiện một cách đầy đủ.
b) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thận giải quyết vụ việc dân sự.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hòa giải với nhau.Điều này xuất phát từ bản chất quan hệ dân sự, các bên bình đẳng với nhau, tự do cam kết, xác lập thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong TTDS thỏa thuận mang ý nghĩa quan trọng, bởi vụ việc dân sử được tòa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, đương sự với tư cách 2 bên tham gia TTDS nếu cảm giác sau khi hòa giải quyền lợi của mình đã được bảo đảm thì phiên tòa hay phiên họp giải quyết sẽ không còn ý nghĩa, nếu tiếp tục xét xử thì vừa tốn kém lại có thể không đem lại kết quả như mong muốn của các chủ thể. BLTTDS 2004 đã tạo ra 1 khung pháp lý quan trọng về vấn đề này khi quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Mọi tác động bên ngoài ý chí của chủ thể dều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận“ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”( điểm a khoản 2 Điều 180). Việc hòa giải của các đương sự cần kể tới vai trò quan trọng của tòa án trong việc tạo điều kiện và giải quyết những vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của đương sự và tòa án phải tuân theo các quy định của pháp luật. Nhưng người quyết định vẫn là các đương sự.
Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS tại phiên tòa so thẩm, Hội đồng xét xử sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, nếu đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận việc thỏa thuận của đương sự. Trong giai đoạn phúc thẩm, tuy BLTTDS không quy đinh tòa án cấp phú thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nhưng nếu tại tòa phú thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhauvề việc giải quyết vụ án( tự nguyện, không trái đạo đức xã hội) Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sủa bản án sơ thẩm, công nhận sự hòa giải của các đương sự( Mục 5.1 , phần III Nghị quyết 05/2005/NQ- HĐTP)
Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thỏa thuận ở quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền tụ thỏa thuận không thông qua tòa án, trong trường hợp Tòa án không phải người chủ động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự khỏa thuận với nhau
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trong đó vai trò của đương sự luôn được đề cao trông tất cả các giai đoạn tố tụng. Công dân có quyền tự bảo vệ mình trong khuôn khổ pháp luật và đạt được kết quả phù hợp nhất đối với đương sự và xã hội. Đồng thời, nguyên tắc này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sóng và làm theo pháp luật trong nhân dân.
3) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của tòa án
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung quyền tự định đoạt của đương sự. Để bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của mình các đương sự thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là người thay mặt theo ủy quyền của đương sự( Khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004). Việc thay mặt theo ủy quyền này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự. Đương sự có thể ủy quyền cho người thay mặt thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, sau khi ủy quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người đại diện.
Theo quy định tại Điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự có quyền nhờ luật sư hay người khác mà tòa án châp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 63 BLTTDS . Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi, chám dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự do 2 bên quyết định. Như vây, một lần nữa quyền tự định đoạt của đương sự lại được thể hiện. Tất cả đều hướng tới lợi ích của đương sự.
b) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của tòa án.
Kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự , được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì đương sự được tự quyết định việc thực hiện quyền này. Điều đó đã gián tiếp khảng định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cao vụ án đã xét xử sơ thẩm. Ngoài ra BLTTDS còn quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu bắt đầu phiên tòa tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu.
4) Trách nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
Bên cạnh các quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng, quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong BLTTDS cũng quy định rố trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Cụ thể là tòa án chỉ được quyền thụ lý, giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Đây là điều hoàn toàn khác với TTHS, cũng thể hiện rõ sự tôn trọng của Nhà nước đối với quyền tự định đoạt của đương sự.
Bên cạnh đó Tòa án trong các giai đoạn tố tụng đều luôn thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự từ việc thỏa thuận, thay đổi,bổ sung, rút đơn yêu cầu…của đương sự. Đảm bảo quyền tự định đoạt triệt để nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Quyền tự định đoạt của đương sự bắt nguồn từ quyền tự quyết của các bên đối với các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự. Vì vậy nó có đặc điểm sau: - Về chủ thể: Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này có thể là bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội hàng ngày, khi các quan hệ đó không được thống nhất giải quyết theo thỏa thuận hoặc bất đồng trong việc giải quyết hậu quả của một quan hệ dân sự dẫn đến tranh chấp không giải quyết được và một trong hai bên yêu cầu Tòa án giải quyết., đương sự có được tự thoả thuận nội dung tranh chấp dân sự hay không, Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, phân tích nguyên tắc tự định đoạt trong tố tụng dân dân sự
Last edited by a moderator: