vudinhkhanh2000

New Member
Ôn tập thi vào lớp 10 phần tác giả, tác phẩm



Bài 1: "Đồng chí"(Chính Hữu)




1.Tác giả:



Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đôvà hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ Chính Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.



"Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tưởng, ngôn ngữ chon lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính Hữu được tăng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000 (Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, Sđđ).



2.Tác phẩm:



Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thường.

Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đôi gắn bó thắm thiết của những người nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động đẹp đẽ.



***

Bài 2: "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"- Phạm Tiến Duật



1. Tác giả :



Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Trường đại học sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước.



Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc khánh chiến chống đế quốc Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.



Các tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng đường (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Nhóm lửa (thơ, 1996);...



Tác giả đã được nhận: giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969 - 1970.



2. Tác phẩm :



Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm thơ được tăng Giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1969 - 1970.



trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh "anh bộ đội cụ Hồ" hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.



"Chỉ một tuần sau bài thơ ra đời, cả mặt trận có vô số tiểu đội xe không kính. Sau này, vào những năm cuối cuộc kháng chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự lái xe vỡ để mắt thường nhìn trực tiếp mặt đường chằng chịt hố bm cho rõ hơn dưới ánh sáng lù mù của chiếc đèn gần soi. Thậm chí, có người còn tháo cả cánh cửa buồng lái để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị máy bay AC130 săn đuổi - loại máy bay bắn roc - ket hay đạn 27 li vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh mặt đất và bằng kính nhìn có tia hồng ngoại.



Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính có cái mãnh lực thần kỳ ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tính lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thếphải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đao của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam!



Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài thơ này, không ít người như tui lại bồi hồi nhớ về một quãng đời chiến tranh ở đường 9 - Nam Lào, nhớ về hình ảnh anh Phạm Tiến Duật lần đầu đứng trước anh em đơn vị D61. Anh đọc cho anh em nghe bài thơ nói về họ trước giờ xuất kích. Đã hết câu cuối cùng của bài thơ mà cả đơn vị còn lặng im, rồi phút chốc cùng vùng dậy, thoáng đã nhồi sau tay lái. Một khoảng rừng già rộ lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi về hướng Nam đã định"



***

Bài 3: "Đoàn thuyền đánh cá"- Huy Cận



1.Tác giả:



Nhà thơ Huy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận (1919-2005) .Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng(1940). Ông tham gia Cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Huy Cận được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và nghệ thuật( năm 1996).



Hơn sáu mươi năm Hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần hai mươi thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn "từ ngàn xưa"đến niềm vui lớn hôm nay.



Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ Huy Cận vừa bám lấy cuộc đời, vừa hướng tới những khoảng rộng xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn trở với cái chết, vừa nâng niu sự sống trước qui luật tử sinh, vừa triết lý suy tư, vừa hồn nhiên thơ trẻ, vừa bay bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thường, trong cái khoảnh khắc hữu hạn của đời người vẫn muốn hóa thân vào cái vĩnh cửu, trường sinh(Trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi, chiến trưỡng gần đến chiến trường xa, ngày hằng sống ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, ta về với biển, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động và sự chuyển hóa giữa nhiều yếu tố trong hình tượng cái tui trữ tình, Huy Cận đã tạo cho mình một phong cách đặc sắc, độc đáo. Huy Cận đã tỏ ra sở trường về thơ lục bát và có đóng góp đáng kể trong sự mở rộng hình thức và nâng cao trí tuệ cho thơ theo hướng suy tưởng, vươn lên những khái quát rộng xa, giàu liên tưởng trong những bài thơ mở rộngl khuôn khổ , kích thước.



Các tác phẩm chính : Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai bài tay em (thơ; 1967); Phù Đổng Thiên Vương

(thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ; 1972);

Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973);Chiến trường gần chiến trường xa(Thơ, 1973);Những người mẹ, những người vợ( thơ, 1974); Ngày hằng sốmg ngày hằng thơ(thơ,1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976) ; Ngôi nhà giữa nắng(thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984) ; Tuyển tập( thơ, 1986);...



2 . Tác phẩm:



Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn

và cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận.



Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơicủa đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cávà khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh của ngày mới.



Về hoàn cảnh sáng tác, nhà thơ Huy Cân nhớ lại: "Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tui được viết ra trong những tháng năm đất nước bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không khí lúc này vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả tác phẩm vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến binh minh. Đoàn thuyền đánh cá lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thường, lúc mặt trời lặn và trở về trong ánh bình minh chói lọi. Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật trong quy luật vận động tự nhiên của nó. ở đây tui đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ. Nếu trước cách mạng vũ trụ ta còn buồn thì bây giờ vui, trước là cách biệt xa cách với cuộc đời thì hôm nay lại gần gũi với con người. Bài thơ của tui là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên và con người đã chiến thắng. tui coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trogn lao động với tinh thần làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Chất hiện thực của khung cảnh lao động trên biển cả khi vùng biển đã về ta. Và chất lãng mạn thì cũng không cần tưởng tượng nhiều. ở giữa cảnh biẻn cao rộng đó, với gió, với trăng, rồi bình minh và nắng hồng, và đặc biệt là sức người trong lao động đều thực sự mang tính chất lãng mạn bay bổng "Thuyền ta lái gió với buồm trắng" ; "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời". Cảm hứng và hình ảnh ấy rất thích hợp với lạo động trên biển. tui nghĩ rằng trong khung cảnh đó cũng không thể viết khác đi. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đẹp của một ngày đẹp của một ngày mới khi đoàn thuyền đang trở về, các khong thuyền đầy ắp cá. Mở đầu bài thơ là hình ảnh "Mặt trời xuống biển" và kết thúc là hình ảnh "mặt trời đội biển" nhô lên giữa sông nước.



Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và con người đã hoàn thành trách nhiệm của mình trong lao động. Không có gì vui bằng lao động có hiệu quả.



Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của thơ tui trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. tui viết bài thơ tương đối nhanh, chỉ vài một giờ của buổi chiều trên vùng biển Hạ Long. Bài thơ được viét liền mạch và ít phải sửa chữa. tui nghĩ đó cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà thực sự là cảm hứng đã được tích tụ trên một đề tài quen thuộc của tui và được viết ra trong không khí rất vui của những năm tháng đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội" (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB Văn học, Hà Nội, 2001).



***

Bài 4: "Bếp lửa"- Bằng Việt



1. Tác giả:



Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XXvà thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.



"Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in chúng với Lưu Quang Vũ trong tập Hương cây - Bếp Lửa (1968). Nỗi nhớ quê hương dầu tiên thành thơ là giành cho bếp lửa : "Bếp lửa chờn vờn sướng sớm - Một bếp lửa ấp iu nồng đượm" gắn với hình ảnh người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu vừa sâu sắc , vừa thâm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc, cuộc đời gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về những kỷ niệm về cuộc sống gia đình , về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam. Bài thơ biểu hiện một triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuôc đời.Mạch triết luận thầm kín được khởi đầu từ bếp lửa còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác nhơ trở lại trái tim mình khi ông coi Thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức mạnh. Cùng với thư gửi người bạn xa đất nước, tình yêu và báo đông, Trở lại trái tim, nhà thơ ghi lạiđược những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên rất mực mến yêu đất nước, con người, nêu bật được một thủ đô hào hoa thanh lịch, trầm tĩnh và anh hùng. Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diên đạt những suy tư về những danh nhân văn hóa nhân loại nhơ: Béc- tô - ven, Pau - tốp xky, pli- xet- xcai- a. Người đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo, những bồi hồi thương nhớ của một người cha ở nơi xa chăm chú theo rõi từng bước đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức vang xa. Có thể nói với 20 bài thơ trong tập thơ hương cây- Bếp lửa Bằng Việt đã phác họa được một triết luận thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi suy nghĩ, gây được một cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc.Thơ ông thường sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc trong sự trầm tĩnh vắng lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lưu lại trong ký ức người đọc" (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam, Sđđ).



Các tác phẩm chính : Hương cây - Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Những gương mặt những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ, 1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa - khoảng trời (thơ tuyển, 1988); Phía nửa mặt trăng chìm ( thơ, 1986); Lọ lem (dịch thơ ép - tu - sen - kô);...



Tác giả đã được nhận: Giải Nhất Văn học - Nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình (Liên Xô) trao tăng năm 1982.



2. Tác phẩm:



- Bài thơ Bếp lửa được tác giả Băng Việt sáng tác năm 1963, khi là sinh viên đang học ở nước ngoài.



- Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà vào tuổi ấu thơ được ở cùng bà.





***

Bài 5: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm



1. Tác giả:



Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xà Phong

Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quê gốc: làng An Cựu, xã Thủy An , thành phố Huế.Lúc nhỏ đi học ở quê, năm 1955 ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm1964, vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế, tham gia quân đội , xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo ,làm thơ,... cho đến năm 1975. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm từng là Tổng thư Ký Hội nhà văn Việt Nam (khóa V), Bộ trưởng bộ Văn hóa thông tin. Từ năm 2001, ông là ủy viên Bộ ChínhTrị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương.



Nguyễn Khoa Điềm trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tập thơ Đất ngoại ô và Trường ca Mặt đường khát vọng nhanh chóng khẳng định sự đóng góp và tài thơNguyễn Khoa Điềm lúc bấy giờ. có thể nói thơ Nguyễn Khoa Điềmlà thơ của một trí thức trẻ, giàu vốn sống thực tếvà vốn văn hóa,triết lý và trữ tình, suy tư và cảm xúc.



Các tác phẩm chính : Cửa thép (ký, 1972); Đất ngoại ô (thơ, 1973); Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986) ; Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990) ;...



Nhà thơ đã được nhận: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.



2 . Tác phẩm :



- Bài thơ Khuc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được tác giả Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu Thừa Thiên .



- Bài thơ đã thể hiện truyền thống yêu nước thương dân một cách đặc

sắc qua hình ảnh bà mẹ cõng con lên rẫy. những lời người mẹ ru con bộc lộ sâu sắc tinh thần yêu nước cùng ý chí quyết tâm đánh giặc đến cùng của đồng bào các dân tộc nói riêng và nhân dân ta nói chung.



***

Bài 6: Nguyễn Duy "Ánh trăng"- Nguyễn Duy



1. Tác giả:



Nhà thơ Nguyễn Duy (tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ), sinh năm 1984, tại xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.



Tham gia cong tác từ 1965, làm tiểu đội trưởng dân quân trực chiến khu vực Hàm Rồng - Thanh Hóa. Năm 1966, nhập ngũ tại Bộ tư lệnh Thông tin, lính đường dây, tham gia chiến đấu tại các chiến trường : Khe Sanh - Đường 9 -

Nam Lào. Từ năm 1967, chuyển khỏi quân đội về làm báo Văn nghệ Giải phóng. Hiện công tác tại tuàn báo Văn nghệ .



Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ, 1973); ánh trăng (thơ, 1984); Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí, 1985); Khoảng cách (tiểu thuyết, 1985); Mẹ và em (thơ, 1987); Đường xa (thơ, 1989); Quà tặng (thơ, 1990); (thơ, 1994);...



Tác giả đã được nhận: Giải Nhất thơ tuần báo Văn Nghệ (1973); Tặng thưởng loại A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1985).



"Xuất hiện vào chặng cuối của chiến trang chống Mĩ cứu nước, từ khoảng 1972 trở đi, Nguyễn Duy đã trở thành một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Cho đến nay, Nguyễn Duy vần là một trong số không nhiều nhà thơ "thời ấy" con sung sức và được bạn đọc yêu thích. Có thể thấy tài năng và con đường thơ của ông phát triển và khẳng định gắn chặt với những tháng năm đầy những biến động của lịch sử dân tộc. Những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, với chùm thơ đăng trên báo Văn nghệ nảm 1972, Nguyễn Duy đã chiếm được lòng mến mộ của độc giả. Nhà phê bình Hoài Thanh có công phát hiện và giới thiệu Nguyễn Duy . Ông đã khẳng định ở thơ Nguyễn Duy có một vẻ đẹp "không gì so sánh được" ,



"Quen thuộc mà không nhàm chán" , "Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những cuộc đời cần cù, gian khổ" , chất thơ của Nguyễn Duy chính là "cái hiền hậu, một cái gì rất Việt Nam".



Sau chiến thắng năm 1975, Nguyễn Duy vần say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Tiếng thơ của ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu quen thuộc mà hấp dẫn người đọc. Tập thơ nổi bật của Nguyễn Duy là tập ánh trăng (1984). Tập thơ được coi là một bước tiến trong thơ Nguyễn Duy , tập thơ đã được tặng Giải A của Hội Nhà văn Việt Năm 1984 (cùng với tập thơ hoa trên đá của Chế Lan Viên) ánh trăng tiếp tục viết về bộ đội, về cuộc đời người lính sau chiến tranh với những vần thơ tha thiết và thấm thía, những trăn trở băn khoăn (ánh trăng, nghe tắc kè kêu trong thành phố...). Cũng ở tập thơ này, Nguyễn Duy còn dành nhiều bài thơ viết về tuổi thơ, ruộng đồng cây cỏ, những vùng quê với những con người thân thuộc bằng một tình cảm tha thiết nặng tình, nặng nghĩa (Đò Lèn, Tuổi thơ, Cầu Bố, Ông già sông Hậu, Gửi Huế, Lời của cây, Sông Thao, Đà Lạt một lần trăng,...). Vần tiếp tục chất giọng ca dao đậm đà, thân thuộc nhiều bài trong ánh trăng viết theo thể lục bát hết sức nhuần nhị, ngọt ngào nhiều khi khó mà nbiết phân biệt được những bài ca dao (Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nm dùng trong nhà trường).



2. Tác phẩm:



Bài thơ ánh trăng được xem như là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ về cội nguộn và ý thức trước lẽ sống thủy chung.





***

Bài 7: "Lặng lẽ Sa Pa"- Nguyễn Thành Long



1. Tác giả:



Nhà văn Nguyễn Thành Long ( 1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyệ tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kì kháng chiến chống thợc dân Pháp, Ông là cây bút chuyên về truyện ngắn,



Tập trung nhiệt thành ngợi ca những con người lao động mới, dám nghĩ dám làm, không sợ khó khăn gian khổ, say mê trong lao động sáng tạo, nhn hậu và tha thiết yêu cuộc sống...Truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc bằng văn trong sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng thoải mái, cốt truyện tưởng như đơn giản mà giàu ý nghĩa khái quát, Lặng lẽ Sa Pa là truyện ngắn tiêu biểu như thế. Truyện viết về một thị xã nhỏ bé của tỉnh Lào Cai luôn chìm đắm trong sương mù: Sa Pa. Đén với nới ấy là những con người thật: một anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, một cô kĩ sơ nộng nghiệp mới ra trường, một bác lái xe già đã chạy suốt 30năm trên tuyến đường Sa Pa, một họa sĩ đi thực tế chuyến cuối cùng - của cuộc đời công tác trước khi nghỉ hưu, bốn gương mặt tiêu biểu, bốn tính cách khác nhau: anh thanh niên đầy nhiệt huyết bộc trực, chân thành, cô kĩ sư trẻ hồn nhiên nhưng kín đáo tế nhị, ông họa sĩ trầm tĩnh sâu lắng, còn bác lái xe thì sôi nổi, vui tính...Họ tình cờ gặp nhau trên con đường tới Sa Pa mà bỗng trở nên gần gũi và thân thiết như một gia đình. Tuy tính tình và nghề nghiệp khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một tâm hồn trong sáng, tinh tế, một suy nghĩ lành mạnh sâu sắc và nhất là họ có chung một thái độ sống, lao động, lầm việc và cống hiiến hết mình cho Tổ quốc một cách vô tư hồn nhiên, âm thầm và lặng lẽ.Đó là một truyện ngăn hay tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Thành Long: nhẹ nhàng kín đáo mà rất sâu sẵcvà thấm đẫm chất thơ (Từ điiển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường ).



Các tác phẩm chính: Bát cơm cụ Hồ( 1953); Chuyện nhà chuyện xưởng( 1962); những tiếng vỗ cánh(1967); Giũa trong xanh(1972); Nửa đêm về sáng(1978); Lí Sơn mùa tỏi(1980); Sáng mai nào, xế chiều nào(1984)...



2. Tác phẩm:



Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được nhà văn Nguyễn Thành Long viết năm 1970 sau chuyến đi Lào Cat của tác giả.



Thông qua một tình huống gặo gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa, tác giả khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.





***

Bài 8: "Chiếc lược ngà"- Nguyễn Quang Sáng



1. Tác giả :



Nhà văn Nguyễn quang Sáng sinh năm 1932, qua ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954 tập kết ra bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.



Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.



"Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị , mộc mạc nhưng sâu sắc, viết để "phục vụ ngay, để đánh trả lại kẻ thù từng miếng từng nhát thật sâu" . Ông đã khắc họa những hình ảnh chân duung thực, đẹp đẽ của những con người miền Nam kháng chiến. Đó là hình ảnh những người dân Sài Gòn đánh địch ngoan cường theo "kiểu Sài Gòn" ( Chị Nhung, Sài Gòn dưới tầng khói) đó là những người nông dân đồng bằng sông Cửu Long như anh Báy Ngàn bình thản ngồi hút thuốc sau khi quần nhau mấy lần hút chết với giặc(Một chuyện vui) hay anh Ba Hoành trong Quán rượi người câm cắn răng chụi đựng những trận tra tấn của kẻ thù đến hóa câm, bốn năm ở nhà với vợ trông nom một quán rượi ven sông và âm thầm chuẩn bị lực lượng cho ngày đống khởi... Trong những năm kháng chiến, tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên sức chiến đấu mạnh mẽ của nhân dân miền Nam, củng cố niềm tin yêu của cả nước đối với đồng bào nơi thành đồng Tổ quốc" ( Từ điển tác giả, tác phẩm văn xuôi dùng trong nhà trường).



Với thể loại truyện ngắn, qua nhiều tác phẩm, ông đã khẳng định một phong cách đậm đầ chất Nam bộ từ việc xây dựmh khung cảnh thiên nhiên đến kháec họa tính cách con người.



Các tác phẩm chính: Con chim vàng ( 1957); Người quê hương (truyện ngắn,1958); Nhật kí người ở lại (tiểu thuyết,1962); Đất lửa (1963); Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa,1966); Chiếc lược ngà (truyện ngắn 1966); Bông cẩm thạch (truyện ngắn, 1969); Mùa gió chướng ( tiểu thuyết, 1975); Người con đi xa (truyện ngắn 1977); Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); Bàn thờ tổ của một cô đào (truyện ngắn, 1985); tui thích làm vua

(truyện ngắn, 1988); Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990); Con mèo Fujita (truyện ngắn, 1991); Mùa gió chướng (1977, kịch bản phim); Cánh đồng hoang (1978, kịch bản phim); Cho đến bao giờ (1982); Mùa nước nổi

(1986); Dòng sông hát (1988); Câu nói dối đầu tiên (1988); Thời thơ ấu (1995); Giữa dòng (1995); Như một huyền thoại (1995);...



Tác giả đã được nhận : Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống nhất

(1995); Giải thưởng cuộc thi truyên ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội (1959); Giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà Văn (1985); Giải thưởng thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam 1993; Huy chương vàng Liên hoan phim toàn quốc (1980); Huy chương vàng Liên hoan phim ở Matxcơva (1981); Huy chương bạc Liên hoan phim toàn quốc (1980).



2. Tác phẩm:



Truyện chiếc lược ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 tại chiến Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chông đế quốc Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra quyết liệt.



Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Quang Sáng. Băng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắà xây dựng tình huống bất ngờ, tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu.



***
 
Bài 9: "Con cò" - Chế Lan Viên



1. Tác giả:



Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ - Quảng trị. Trước CM tháng 8, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới qua tập Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hành đầu ở nền thơ Viết Nam thế kỉ XX .



"17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế lan Viên đã làm nên "một niềm tin kinh dị "trên thi đài của Việt Nam đầu thế kỉ. Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với thực lại hiện hữu: "hãy cho tui một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa - Để nơi ấy tháng ngày tui lẩn tránh - những ưu phiền đau khổ với buồn lo". Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện thực của dân tộc.



Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thao trên những nội buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm Điêu tàn đến Vàng sao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo và yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau CM tháng 8 1945.



Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp Chế

Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Những ở đây, con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi sĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự "từ thung lũng đau thương đến cánh đông vui", làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa vào độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho những bài thơ cuối đời, cái tui trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn vận động vào phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cáh mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịc sử đất nước trong thời đại mới. Trong những cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả chim báo bão, có cả hai ngày thường, có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình.



Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu thơ, dòng thơ, khuôn khổ, phạm vi câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập nhằm biểu đạt ý tưởng lớn của bài thơ. Chế lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tần triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phương Tây và phương Đông.Chế Lan Viên còn là một trong số những nhà thơ hiếm hoi là thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam hiên đại, kết hợp hài hòa giữa cái đẹp truyền thống và hiện đại" (từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,sdd)



Các tác phẩm chính: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường,Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976); Hái theo mùa (1977); HoaTrên đáTuyển tập Chế Lan Viên (hai tập 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995). Về văn xuôi có các tập ký: Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi giận (1966); Giờ của số thành (1977); Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình Văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê văn đến quán trung tân ( 1981); ...



Tác giả đã nhận được huân chương độc lập hạng 2 (năm 1988) Giả thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996); Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985( Tâp thơ Hoa trên đá ); Giải thưởng hội nhà Văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II ).



2. Tác phẩm :



Bài thơ Con cò được rút trong tập Hoa ngày thường ,Chim báo bão (1967). thông qua hình tượng con cò- một hình ảnh quên thuộc của những lời hát ru trong ca dao - tác giả muốn đề cao ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và muốn khẳng định ý nghĩa lời ru đối vơí cuộc đời mỗi con người.



***

Bài 10: "Mùa xuân nho nhỏ"- Thanh Hải



1. Tác giả :



Nhà thơ Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mĩ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở mirnf Nam thời kì đầu.



Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1, 1970; tập 2, 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển tập (1982);...



2. Tác phẩm:



Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện niềm yêu mến thiết thavới cuộc sống, với đất nướcvà ước nguyện chân thành của tác giả về một cuộc sống hàng ngày càng tươi đẹp hơn.





***

Bài 11: "Viếng lăng Bác"- Viễn Phương



1. Tác giả:



Nhà thơ Viễn Phương sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút ccó mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ Giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương còn nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn đọc thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.



Các tác phẩm chính: Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1953); Anh hùng mìn gạt (tập truyện kí, 1968); Mắt sáng học trò (tập thơ, 1970); Lời di chúc

(trường ca, 1972); Như mây màu xuân (tập thơ, 1978); Sắc lụa Trữ la (tập truyện, 1988); Phù sa quê mẹ (tập thơ, 1991); Quê hương địa đạo (tập truyên và kí);...



Tác giả đã được nhận: Giải Nhì Giải thưởng Cửu Long Nam Bộ (1954); Giải Nhì Cuộc thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Giải thưởng Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh; Tăng thưởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.



2. Tác phẩm:



- Bài thơ Viếng lăng Bác được viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước ra viếng Bác. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương đã viết bài thơ này.





***

Bài 12: "Sang thu"- Hữu Thỉnh



1. Tác giả:



Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyên Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho

học. Đã trải qua tuổi ấu thơ không dễ dàng, chỉ thực sự được đi học từ sau hòa bình lập lại(1954). Tốt nghiệp phổ thông (1963), sau đó vào bộ đội Tăng - thiết giáp và nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 8- Nam Lào (1970-1971) , Quảng Trị (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh.



Năm 1981, sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du( khóa 1), Hữu Thỉnh về làm phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. ông được bầu vào Ban Chấp hành Hội nhà Văn Việt Nam từ khóa III(1983) đến nay. Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ t5ịch Hội liên hiệpVăn học - Nghệ thuậtViệt Nam, đại biểu Quốc hội khóa X, XI.



"Trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính, sống thậy sự cuộc sóng của mình giữa lòng cuộc chiến đấu của dân tộc, Hình tượng người lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các tập thơ của Hữu Thỉnh. Ngay ở tập thơ âm vang chiến hào, Hữu Thỉnh đã có một giọng điệu riêng chân thật trong cảm xúc, tinh tế và có nhiều tìm tòi trong cách biểu hiện. Sức bền của đất, Trên một chiếc xe tăng và Chuyến đò đêm giáp ranh là những bài thơ được nhiều người biết tiếng. Một trong những đặc điểm đưa đến sự thành công trong thơ Hữu Thỉnh là sự vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt những câu tục ngữ , ca dao dân gian. Nét đặc trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên nét đặc sắc cho thơ ông. Trường ca Đường tới thành phố đời đã thực sự đánh dấu một giai đoạn trưởng thành của thơ Hữu Thỉnh. Hiện thực của mỗi thời chiến trận đã được thể hiện với một quy môvà chiều dày hơn hẳn những tác phẩm ở những giai đoạn trước. Bằng những hình tượng tiêu biểu đầy cảm xúc, chặng đường dẫn đến chiền thắng của dân tộc được miêu tả và lí giải hợp lí, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, trong đó có khá nhiều những câu thơ tài hoa xúc động. Trường ca Biển viết về đảo Trường Sa là một cuộc đối thoại khôn cùng giữa con người và biển cả. Nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắcvề cuộc đời đã được thể hiện trong đó. Trước đây những câu thơ hay của Hữu Thỉnh thiên về cảm. Bây giờ câu thơ của ông đậm màu triết luận, có sức nặng của suy nghĩ và chiêm nghiệm. Chất lượng thơ Hữu Thỉnh thể hiện một quá trình phấn đấu không ngừng. Tập Thư mùa đông là một nỗ lực tự vươn lên mình của ông"(từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường Sđđ)



Các tác phẩm chính: âm vang chiến hào (in chung 1975); Đường tới thành

phố (trường ca, 1979); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung); Thư mùa

đông (1984) ; Trường ca Biển (1984); Từ chiến hào đến thành phố (1985);..



Tác giả đã được nhận : Giải nhất cuộc thi thơ báoVăn nghệ(1976), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam(1980,1995); Giải thưởng văn học ASEAN

(1999); Giải thưởng Nhà nước (2001);...



Hữu Thỉnh có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn.



2. Tác phẩm:




Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước biến thái của thiên nhiên từ hạ sang thu.



***

Bài 13: "Nói với con"- Y Phương



1. Tác giả:



Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên hộI Nhà văn Việt Nam(1988).



Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng.



Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩmđan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong có màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nết độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt nam nói chung, có thêm một giọng điệu mới, một phong cach mới. (Từ điển tác giá tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường).



Các tác phẩm chính: Người hoa núi(kịch bản sân khấu, 1982);Tiếng hát tháng giêng(thơ, 1986); Lửa hồng một góc( thơ in chung, 1987);Lời chúc

(thơ,1991); Đàn then (thơ, 1996)....



Tác giả đã nhận được: giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân dội; Giải thưởng loại A Giải thưởng văn học 1987 của hội nhà văn Việt Nam....



2. Tác phẩm:



Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết:



Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỉ XX , đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân ta cả nước nói chung, nhân đan cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cục kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượi qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha ta để lại.



Cuối năm 1975, tui cũng mới từ mắt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa

nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của

toàn xã hội. Nhìn cách con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tui cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất. Họ buôn bán lận, lợi dụng khẽ hở của nhà nước móc lối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.



Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tui làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.”



***

Bài 14: "Bến quê"- Nguyễn Minh Châu



1.Tác giả:



- Nhà văn Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) sinh tại làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam (1972).



- Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tac, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết cảu ông, đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp vă học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều vấn, nhiều ngợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới.” (Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Minh Châu- về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục 2001).



Các tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) ; Những vùng trời khác nhau ( Tập truyện ngắn, 1970) ; Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) ; Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974) ; Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) ; Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết,1977) ; Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) ; Người đàn bà trên chiến tàu tốc hành ( Tập truyện ngắn, 1983) ; Đảo đá kì lạ ( 1985) ; Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) ; Chiếc thuyền ngoài xa ( Tập truyện ngắn, 1987) ; Cỏ lau ( Tập truyện vừa, 1989) ; Trang giấy chiếc đèn ( tiểu luận phê bình, 1994) ; ...



Tác giả đã được nhận : Giải thưởng bộ quốc phòng ( 1984, 1989) ; Giải thưởng hội nhà văn Việt Nam ( 1988, 1989) ; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ( 2000) .



2. Tác phẩm:



Truyện ngắn Bến Quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh

Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày với những xhi tiết sinh hoạt đời để phát hiện được chiều sâu của cuộc sống với bao quy luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.





***

Bài 15: "Những ngôi sao xa xôi"- Lê Minh Khuê



1.Tác giả :



Nhà văn Lê Minh Khuê sinh năm 1949 tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ; Hội viên hội nhà văn Việt Nam ( 1980).



Tốt nghiệp phổ thông trung học, Lê Minh Khuê tham gia đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước. Những năm tháng vất vả gian nan mà hào hùng ở ngoài tuyến lửa đã tạo cảm hứng chính những sáng tác của chị sau này. Năm 1969 , chị là phóng viên Tiền phong. Năm 19723- 1977, phóng viên đài phát thanh Giải phóng và sau đó là đài truyền hình Việt Nam.Từ 1978 đến nay, nhà văn Lê Minh Khuê là biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn.



Là nhà văn sở trường về truyện ngắn, từ sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiếu vấn đề bức xúc của xã hội thời điểm mới. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lí phụ nữ.



Các tác phẩm chính: Cao điểm mùa hạ ( 1978) ; Đoàn kết (1980) ; Thiếu nữ mặc áo dài xanh (1984) ; Một chiều xa thành phố (1987) ; Em đã không quên (1990) ; Bi khịch nhỏ (1993) ; Trong làn gió heo may (1998) ; ...



Tác giả đã được nhận: Giải thưởng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 ( tập truyện ngắn: Mội chiều xa thành phố).



2. Tác phẩm:



Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bm ở một cao điểm trong thời kì cuộc chiền tranh trống đế quốc Mĩ đang diễm ra khốc liệt. Miêu tả các cô gắi hằng ngày, hằng giờ đối mặt với nguy hiểm nhưng hấ dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hòi hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con người khá sinh động, sâu sắc của tác giả.



(Sưu tầm)
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top