vungnhietdoi_vn

New Member
ÔNG ĐỒ MỘT MẢNH TÂM HỒN VIỆT



--- Ngô Văn Giá ---






Ngồi cạnh bài thơ Ông đồ, bỗng một câu ca xa xôi chợt đến "Còn duyên kẻ đón người đưạ..". Liệu đây có phải là câu chuyện còn duyên - hết duyên hay không? Có cái duyên tự mình để mất, lại co cái duyên bị lấy mất đi. Nhà thơ Vũ Đình Liên đã nói bằng thơ về một duyên phận, cái duyên do thời thế cướp mất của ông đồ nho già làm nghề viết chữ. Cái ngày chữ Nho còn được trọng vọng, mỗi độ xuân về, rộn ràng bao người thuê viết. Thế rồi "mỗi năm mỗi vắng", công việc xem chừng uể oải, rời rạc, cầm chừng, khi có khi không. Cuối cùng thì tắt hẳn, ông đồ trở thành kẻ "ngồi không", tuy "vẫn ngồi đấy" mà "không ai hay", như là không có mặt, là thừa, vô ích không ai cần đến. Ông đồ lui hui ngồi đấy, ngẫm thấu phận mình. "Giấy đỏ buồn", "nghiên sầu", "lá vàng rơi", "mưa bụi bay" cùng đồng loã, phụ hoạ vào cái nghịch cảnh buồn thiu đó. Không còn một chút khả năng liên hệ với chung quanh, ông là một thực thể cô đơn và đầy mặc cảm...



Có một nhà thơ cũng như đám đông thời thế đã từng có lúc vô tình trước cảnh ngộ của ông đồ già kia, để đến tận "bây giờ" bỗng giật mình nhận ra một khoảng vắng. Ông đã từ giã cõi đời này hay từ giã caí nghề này? Đằng nào thì cũng thế, duyên phận cũng chỉ có đến thế thôi. Các câu thơ ngũ ngôn thông suốt, đan xen một trắc, một bằng tuần tự, lên xuống đều đặn không trồi sụt, không gãy xốc, tạo ra một âm hưởng lặng lẽ, u hoài, xa vắng, ít nhiều xa xót...



Viết thuê là một cảnh ngộ mưu sinh, kể ra đáng thương. Nhưng chuyện đó không hề quan trọng và không có ý nghĩa gì lắm trong bài thơ này. Ở đây, nhà thơ lặng ngẫm về một nét văn hoá cổ truyền đang bị tàn phai. Người viết thuê và người thuê viết như cùng tự nguyện tham gia vào một trò chơi văn hoá. Người viết thỏa thuê trong caí thù chơi chữ, viết như một cuộc chơi, như một nhu cách giao cảm với con người và trời đất mỗi độ xuân về. Cả người viết lẫn người thuê đều biết trong "cõi tinh thần", biết hướng đời sống vaò những vẻ đẹp thanh cao. Còn biết chơi chữ, quý chữ, quý người cho chữ là còn biết trọng cái "thiên lương", là muốn sống sao cho đẹp. Ấy thế mà nền Nho học đã đến một thời tàn. Sự thắng thế của văn minh Tây học đẩy nhanh những người của thời Nho học vào một vị thế của kẻ ngoài cuộc, mang một mặc cảm lạc điệu, lạc dòng, và một tâm trạng bùi ngùi, tiếc nuối.



Với ai không biết, nhưng quả tim nhà thơ đã "đọc" ra được rằng: trong cuộc chuyển giao thời vận naỳ có những cái đẹp bị mất theo mà đáng lẽ không đáng tội mất, lẽ ra cần được gìn giữ, được sống mãi với đất nước bày. Không phải ngẫu nhiên để nói về những người vừa đó của một thời cũng mới vừa qua, nhà thơ gọi ra bằng một chữ hồn (Hồn ở đâu bây giờ?). Đây là cách gọi rất việt Nam đã đành, mà còn chỉ ra một cách chính xác đến lạ lùng những cái gì đã qua mà không mất, mà còn mãi. Hồn là bất tử, là không bao giờ mất, mà chỉ có tụ tán, đi về trên cõi dương gian. Vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hoá Việt chỉ có thăng trầm, cứ không bao giờ mất cả. Bài thơ đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi, nên nó còn tha thiết mãi.



Có nhà nghiên cưú văn học cho rằng: trong thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam đã để hai lần lỡ nhịp: lần một từ chối Hán học, và lần hai từ chối Tây học, nên bị thiệt rất nhiều. Đây là câu chuyện thời thế, nỗi buồn thời thế. Vậy thì hai câu thơ:



Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?



vẫn cứ còn là một ám ảnh day dứt với hôm nay...



Nguồn: Sưu Tập


 

bebong_mimi

New Member
Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi những vẻ đẹp tài hoa một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ Ông Đồ thể hiện một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi. Bài thơ là tấm gương phản chiếu cho hồn thơ giàu lòng thương người và hoài cổ của Vũ Đình Liên.



Được ra đời trong phong trào Thơ mới, nhưng bài thơ thoát khỏi hai trục cảm xúc chính thời bấy giờ là tình yêu và thiên nhiên. Trong lúc những nhà thơ lãng mạn đang chìm đắm trong cái tui cá nhân, muốn vẽ nên hiện thực mà họ muốn có, say sưa trong mộng ảo thì Vũ Đình Liên – một trí thức tây học trong lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau đãø bất chợt nhận ra “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời”. Ông đồ – hình ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng tồn tại trong suốt một ngàn năm phong kiến Việt Nam.



Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình:



Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.



Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời:



Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay.



Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm giác xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất?



Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc:



Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mưcï đọng trong nghiên sầu.



Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “mỗi năm mỗi vắng”. Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo:



Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.




Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo,ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tui lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng: “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn. “lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc:



Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?



Thực sự đến giờ bài thơ “chứa đựng cả một hệ vấn đề: bi kịch của sự gặp gỡ Đông và Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại, sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”. Vòng tuần hoàn của đất trời vẫn tiếp tục, nhưng bóng dáng của ônd đồ không còn nữa. Cảnh đấy, còn người ở đâu? Hoa đào kia như một biểu tượng của dòng thời gian, của tạo hoá. Cái còn, cái mất ám ảnh trong tâm trí mọi người. Ở đó là một niềm nhớ thương vời vợi:



Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?



Khi bóng dáng ông đồ không còn, liệu nét chữ – “hồn” của ông – còn chăng? Những tinh hoa của giá trị tinh thần đã hoàn toàn mất hẳn? “Những người muôn năm cũ” là ông đồ, là người thuê viết hay chính là thế hệ của lớp người mới trong đó có chính nhà thơ? Dẫu là ai, câu thơ vẫn gợi lên một niềm ray rứt, ngậm ngùi. Mạch đồng cảm của người xưa và người nay được nối liền: Sự chán ngán cùng cực của ông đồ và nỗi lòng ân hận, tiếc nuối của lớp hậu sinh đã vô tình lãng quên thế hệ cha ông.



Hỏi để đánh thức dậy trong tiềm thức sâu xa của mỗi người dân Việt những nỗi niềm vọng tưởng, đánh thức dậy nỗi ân hận, day dứt nhưng cũng đồng thời nhắc nhở mọi người đừng quên lãng đi quá khứ, lãng quên đi lòng yêu nước và văn hoá dân tộc. Bởi lẽ, đó cũng là hồn nước, hồn thiêng sông núi, là quốc hồn quốc tuý. Đánh mất đi hồn dân tộc có khác chi là mất nước?



Và có lẽ, Vũ Đình Liên không đến nỗi bảo thủ khư khư mực tàu giấy đỏ mà quan trọng hơn đó là tình cảm gắn bó và trân trọng một lớp người tài hoa, đáng kính của nhà thơ. Để rồi, trong tâm hồn ta bất chợt một lúc nào đó lại vọng về tiếng bà ru cùng tiếng đua nôi kẽo kẹt:



Chẳng ham ruộng cả ao liền

Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ.



(Ca dao)
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top