Download Đề tài Phân tích chính sách của ngành nông nghiệp tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay miễn phí
LỜI MỞ ĐẦUVào thế kỷ XXI, nông nghiệp vẫn tiếp tục là công cụ chính cho sự phát triển bền vững và giảm nghèo, ¾ số người cùng kiệt tại các nước đang phát triển sống ở khu vực nông thôn- 2,1 tỷ người sống dưới mức 2$/ngày và 880 triệu người sống dưới mức 1$/ngày. Sinh kế của họ hầu như phụ thuộc vào nông nghiệp. Dù họ ở đâu và làm gì thì phát triển nông nghiệp vẫn là việc cấp bách để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỉ về giảm một nửa số dân đang phải chịu cảnh cùng kiệt đói vào năm 2015 và tiếp tục giảm cùng kiệt trên diện rộng.
Việt Nam là một trong những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp. Nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Hàng loạt các chính sách phát triển của nông nghiệp – nông thôn ra đời nhằm hỗ trợ, khuyến khích sự tăng trưởng đó. Và tuy nền nông nghiệp rất rộng lớn, đa dạng và thay đổi nhanh chóng nhưng với các chính sách đúng đắn và đầu tư hỗ trợ cấp địa phương, quốc gia và rộng hơn nữa là toàn cầu, nông nghiệp vẫn tạo ra các cơ hội mới cho hàng trăm triệu người cùng kiệt nông thôn thoát nghèo.
Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận và xem xét lại một cách nghiêm túc vấn đề phát triển nông nghiệp và coi đó như một vấn đề trung tâm của mục tiêu phát triển quốc gia.
Với những lý do đó, tui đã chọn đề tài “Phân tích chính sách của ngành nông nghiệp tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay”. Với sự giúp đỡ của GS. TS. Phan Thị Nhiệm, tui đã nỗ lực để hoàn thành bài viết. Mặc dù vậy, việc mắc phải những sai sót là điều không thể tránh khỏi, vì vậy tui rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía cô giáo bài viết của tui được hoàn thiện hơn.
tui xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn của các nước đang phát triển
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông nghiệp đã có từ hang nghìn năm nay kể từ khi con người bỏ nghề săn bắn và hái lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nền kinh tế nông nghiệp thường được nói đến như nền kinh tế truyền thống.
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương thực là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra. Con ngưới không thể sống thiếu lương thực và hơn cả là không có sản phẩm nào thay thế lương thực được. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hay nhập khẩu lương thực.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan. Nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai.
Ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung nhiều lao động hơn hẳn so với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60%-80% lực lượng lao động xã hội. Ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ là 75%.
2. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trong trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông
Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế.
Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, với ý nghĩa lớn lao là vốn tích luỹ ban đấu cho công nghiệp hoá.
Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng.
3. Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đến phát triển nông nghiệp và nông thôn
Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển biến nền nông nghiệp không những phụ thuộc vào khả năng sản xuất của người nông dân trong việc nâng cao năng suất cây trồng và năng suất lao động mà quan trọng hơn là phụ thuộc váo sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân.
Trong nến nông nghiệp truyền thống người nông dân không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kĩ thuật và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng các cơ sở hạ tầng. Để giúp họ đầu tư theo mô hình lớn như hệ thống điện, đường sá, thuỷ lợi…Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo điều kiện phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao do hoạt động sản xuất của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan, như thời tiết,sâu bệnh… Mặt khác do đặc điểm về sự co giãn của cung-cầu sản phẩm nông nghiệp thường làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó, Chính phủ cần có chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp.
4. Kinh nghiệm của các nước đi trước
4.1 Kinh nghiệm chung ở các nước đang phát triển
Chính sách kinh tế đối với nông nghiệp và nông thôn ở một số nước:
Các chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, bao gồm:
Chính sách về ruộng đất.
Chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất, bao gồm các chính sách về tín dụng, các chính sách tạo vốn, các chính sách hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu.
Chính sách nghiên cứu, triển khai nông nghiệp nhằm giúp nông dân nâng cao các kiến thức sản xuất.
Các chính sách hỗ trợ đầu ra của sản xuất.
Các chính sách đối với nông thôn, thủy lợi phí.
Các chính sách tác động gián tiếp đến sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bao gồm:
Chính sách hỗ trợ, điều tiết sản xuất nông nghiệp, thông qua việc thúc đẩy hay hạn chế xuất khẩu.
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn.
Chính sách trợ cấp lương thực và thực phẩm cho cho tiêu dùng (trợ cấp tiêu dùng trong xã hội).
Chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp – dịch vụ nông thôn.
Bài học kinh nghiệm từ lý luận và thực tiễn các nước:
Chính sách kinh tế của các chính phủ đối với nông nghiệp – nông thôn thường thực hiện:
2.2. Chính sách ruộng đất
Chính sách ruộng đất của Việt Nam được mở đầu bằng Luật cải cách ruộng đất. Mục tiêu của cải cách ruộng đất là thực hiện “người cày có ruộng”. Cải cách ruộng đất đã đem lại thành quả quan trọng là giải phóng người nông dân thoát khỏi sự kìm kẹp của cách sản xuất phong kiến, đưa nông dân từ thân phận nô lệ lên vị trí người nông dân làm chủ ở nông thôn.
Cải cách ruộng đất thường được coi là điều kiện cần đầu tiên để phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cải cách ruộng đất thường là việc chia lại quyền sở hữu hay quyền sử dụng đất từ tay địa chủ cho nông dân. Cải cách ruộng đất có thể thực hiện bằng nhiều hình thức: trưng thu hay trưng mua đất đai của địa chủ chia cho nông dân, chuyển nhượng đất từ những trang trại lớn sang trang trại nhỏ hay phân chia những trang trại lớn thành những trang trại nhỏ.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã có những bước đi cơ bản trong việc cung cấp quyền sử dụng đất cho nông hộ. Trước đây, dưới hệ thống quản lý của hợp tác xã, đất được hợp tác xã phân bổ cho các nông hộ. Hầu hết các vật tư do hợp tác xã cung cấp và nông hộ nộp sản phẩm theo định mức cho hợp tác xã.
Cùng với sự thay đổi của chính sách theo hướng thị trường, Luật đất đai năm 1988 được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tích cực đến động lực người dân. Luật đất đai đã khẳng định: đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân, do Nhà Nước quản lý, là cơ sở pháp lý cho việc quản lý đánh thuế sử dụng đất. Nhà Nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Luật cũng quy định về các quyền của người sử dụng đất khi được Nhà Nước giao đất. Đối với đất đai nông nghiệp, Luật đất đai quy định rõ mức đất trồng cây hàng năm cho mỗi hộ (khoảng 2ha); đất trồng cây lâu năm không quá 10ha/hộ ( các tỉnh đồng bằng) và không quá 30ha/hộ ( các tỉnh trung du, miền núi ). Luật đất đai năm 1988 cho phép quyền sử dụng cá nhân đối với đất trồng trọt từ 10 đến 15 năm. Luật này cũng cho phép các nông hộ tự quyết định trồng loại cây gì và lượng sản phẩm dư ngoài định mức được phép bán trên thị trường. Phản ứng tích cực của nông dân đã được phản ánh thông qua sản lượng thóc tăng một cách đáng kinh ngạc, từ 16 triệu tấn năm 1986 lên đến 17 triệu tấn năm 1988 và 21,9 triệu năm 1993.
Luật đất đai năm 1993 là một bước tiếp theo trong việc tạo ra quyền sử dụng đất tự do hơn đối với nông dân. Thời gian sử dụng đất đã tăng lên 20 năm đối với cây hàng năm, và 50 năm đối với cây lâu năm. Chính sách này cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bao gồm “trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp”. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã thực hiện các quy định khác nữa để đẩy nhanh tiến độ phân bổ quyền sử dụng đất. Đến đầu năm 1998, khoảng 86%, tổng diện tích đất nông nghiệp đã được phân bổ. Khoảng 7,8 triệu nông hộ trong tổng số 9,6 triệu đã được quyền sử dụng đất. Các nông hộ đã nhận được khoảng 86% đất nông nghiệp đã được phân bổ, phần còn lại được cho các doanh nghiệp và các xã.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tác động của chính sách đất đai đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam, cần có chính sách giúp nông dân khắc phục rủi ro, các yếu tố con người giúp phát triển nông nghiệp VN, Trình bày những chính sách nông nghiệp nông thôn chủ yếu của Việt Nam?, tác động chính sách trợ cấp cho nông nghiệp việt nam hiện nay, chính sách của chính phủ đến nông nghiệp, các chính sách bảo hộ trong nông nghiệp ở việt nam, tác động của phát triển kinh tế đến đất sản xuất nông nghiệp
Last edited by a moderator: