Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
ĐỀ TÀI:
“Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.”
Mục Lục
Mục Lục 1
Lời mở đầu 2
Nội dung 4
I.Một số vấn đề lý luận: 4
I.1. Mâu thuẫn biện chứng 4
I.2. Mâu thuẫn biện chứng giữa hai mặt đối lập: cơ hội - thách thức 5
I.3. Tổ chức thương mại quốc tế - WTO: 5
I.4. Việt Nam ra nhập WTO 6
II. Thực trạng của Việt Nam – cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO: 8
III.Các kiến nghị đề xuất để hạn chế các nhược điểm và phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta: 11
Kết luận 14
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước phát triển hay đang phát triển, nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó, quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lý hợp lý sẽ mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang kết quả xấu. Để có thể tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ ... đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần có sự hiểu biết sâu sắc trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Đây là mối quan tâm lớn nhất, là vấn đề quan trọng nhất đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Một hệ quả tất yếu của nền kinh tế toàn cầu hóa là nền kinh tế của các quốc gia sẽ ngày càng thu hẹp lại, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế sẽ trở nên chặt chẽ. Nền kinh tế thế giới đang từng ngày, từng giờ biến đổi làm xuất hiện một xu thế mới – hình thành nền kinh tế toàn cầu hóa. Trong bối cảnh ấy, kinh tế với những bước tiến đáng kể đang và sẽ hòa mình vào nền kinh tế quốc tế. Tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO (tổ chức thương mại quốc tế), APEC (tổ chức hợp tác kinh tế Thái Bình Dương), NAFTA (hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung Euro là ví dụ điển hình trong thiên niên kỷ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng công nghệ ứng dụng tin học là động lực chính, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa.
Nhận thấy được tình hình nước ta đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển nền kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế là vấn đề quan tâm lớn. Ngày 7/11/2006, tại Geneva ( Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào một tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu.
Chính vì các lý do đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”. Em xin chân thành Thank cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Anh đã chỉ dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này
Nội dung
I.Một số vấn đề lý luận:
I.1. Mâu thuẫn biện chứng
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. V.I.Lenin đã gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng vì nó đề cập đến vấn đề quan trọng nhất của phép biện chứng là nguồn gốc của sự phát triển. Đồng thời nó còn là cơ sở để tìm hiểu các quy luật và phạm trù cơ bản khác của phép biện chứng.
Từ thời cổ đại, nhiều nhà triết học đã phát hiện được mâu thuẫn tồn tại dưới dạng các mặt đối lập trong sự vật và sự tác động qua lại giữa chung là cơ sở vận động và phát triển của thế giới.
Quan điểm mác xít về Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau:
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng, những yếu tố có xu hướng biến đổi trái ngược nhau trong cùng một sự vật hay thể thống nhất.
Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo thành từ nhiều bộ phận với những thuộc tính khác nhau mà còn có những mặt đối lập nhau. Những mặt đối lập tồn tại khách quan trong mọi sự vật, hiện tượng trên tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng được hình thành trước hết từ hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa có xu hướng đấu tranh với nhau trong một chỉnh thể sự vật.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, quy định lẫn nhau, mặt đối lập này lẫy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình.
Phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh không chỉ là sự xung đột , đụng độ, thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đa dạng, phong phú về hình thức đấu tranh của các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm, mối quan hệ giữa các mặt đối lập; phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại cũng như điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh
giữa các mặt đó. Lenin cho rằng: “ Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”
Do đó mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
I.2. Mâu thuẫn biện chứng giữa hai mặt đối lập: cơ hội - thách thức
Cơ hội là dịp để thành công. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội.
Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hóa và là 2 mặt đối lập với nhau. Sự đấu tranh, tương tác giữa hai mặt đối lập này là động lực của sự phát triển thế giới.
I.3. Tổ chức thương mại quốc tế - WTO:
Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một “ Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và việc làm” với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập WTO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
WTO thể hiện như người lính canh gác trông coi về mậu dịch quốc tế, liên tục nghiên cứu các chế tài về thương mại của các nước thành viên mình, Trong các tổ chức của mình các thành viên theo dõi và nhắc nhở các biện pháp đã được các nước thành viên đề nghị hay đã soạn thảo mà chúng các thể trở thành nguồn gốc mâu thuẫn trong quan hệ mậu dịch. Trong các trường hợp nếu các mâu thuẫn không thể giải quyết ở mức độ song phương thì sẽ được cơ quan chuyên trách của WTO tiến hành xem xét và giải quyết. Các thành viên của WTO có trách nghiệm thông báo cho WTO tất cả các vấn đề cụ thể về những biện pháp mậu dịch khác nhau và số liệu thống kê để WTO lưu trữ vào ngân hàng dữ liệu của mình.
I.4. Việt Nam ra nhập WTO
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ra. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:“chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Ngay hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” ( Hồ Chí Minh : toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74).
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ra đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng, Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã gia sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thức VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xóa bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ra, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ra tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “ giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là đường lối của Đảng và Nhà nước ta và một trong những điều kiện để quá trình này đạt hiệu quả tốt là chúng ta phải gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Ngày 7/11/2006 tại Geneva đã diễn ra lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới. Sau ba thập kỷ Việt Nam đã thoát ra khỏi cuộc chiến tranh và phát triển kinh tế thị trường, vươn lên trở thành nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai ở châu Á. Việt Nam trở thành thành viên thứ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
ĐỀ TÀI:
“Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.”
Mục Lục
Mục Lục 1
Lời mở đầu 2
Nội dung 4
I.Một số vấn đề lý luận: 4
I.1. Mâu thuẫn biện chứng 4
I.2. Mâu thuẫn biện chứng giữa hai mặt đối lập: cơ hội - thách thức 5
I.3. Tổ chức thương mại quốc tế - WTO: 5
I.4. Việt Nam ra nhập WTO 6
II. Thực trạng của Việt Nam – cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO: 8
III.Các kiến nghị đề xuất để hạn chế các nhược điểm và phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta: 11
Kết luận 14
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước phát triển hay đang phát triển, nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó, quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lý hợp lý sẽ mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang kết quả xấu. Để có thể tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ ... đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần có sự hiểu biết sâu sắc trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Đây là mối quan tâm lớn nhất, là vấn đề quan trọng nhất đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Một hệ quả tất yếu của nền kinh tế toàn cầu hóa là nền kinh tế của các quốc gia sẽ ngày càng thu hẹp lại, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế sẽ trở nên chặt chẽ. Nền kinh tế thế giới đang từng ngày, từng giờ biến đổi làm xuất hiện một xu thế mới – hình thành nền kinh tế toàn cầu hóa. Trong bối cảnh ấy, kinh tế với những bước tiến đáng kể đang và sẽ hòa mình vào nền kinh tế quốc tế. Tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO (tổ chức thương mại quốc tế), APEC (tổ chức hợp tác kinh tế Thái Bình Dương), NAFTA (hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung Euro là ví dụ điển hình trong thiên niên kỷ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng công nghệ ứng dụng tin học là động lực chính, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa.
Nhận thấy được tình hình nước ta đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển nền kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế là vấn đề quan tâm lớn. Ngày 7/11/2006, tại Geneva ( Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào một tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu.
Chính vì các lý do đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong việc tìm hiểu cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”. Em xin chân thành Thank cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Anh đã chỉ dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này
Nội dung
I.Một số vấn đề lý luận:
I.1. Mâu thuẫn biện chứng
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. V.I.Lenin đã gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng vì nó đề cập đến vấn đề quan trọng nhất của phép biện chứng là nguồn gốc của sự phát triển. Đồng thời nó còn là cơ sở để tìm hiểu các quy luật và phạm trù cơ bản khác của phép biện chứng.
Từ thời cổ đại, nhiều nhà triết học đã phát hiện được mâu thuẫn tồn tại dưới dạng các mặt đối lập trong sự vật và sự tác động qua lại giữa chung là cơ sở vận động và phát triển của thế giới.
Quan điểm mác xít về Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau:
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng, những yếu tố có xu hướng biến đổi trái ngược nhau trong cùng một sự vật hay thể thống nhất.
Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo thành từ nhiều bộ phận với những thuộc tính khác nhau mà còn có những mặt đối lập nhau. Những mặt đối lập tồn tại khách quan trong mọi sự vật, hiện tượng trên tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng được hình thành trước hết từ hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa có xu hướng đấu tranh với nhau trong một chỉnh thể sự vật.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, quy định lẫn nhau, mặt đối lập này lẫy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình.
Phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh không chỉ là sự xung đột , đụng độ, thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đa dạng, phong phú về hình thức đấu tranh của các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm, mối quan hệ giữa các mặt đối lập; phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại cũng như điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh
giữa các mặt đó. Lenin cho rằng: “ Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”
Do đó mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
I.2. Mâu thuẫn biện chứng giữa hai mặt đối lập: cơ hội - thách thức
Cơ hội là dịp để thành công. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội.
Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hóa và là 2 mặt đối lập với nhau. Sự đấu tranh, tương tác giữa hai mặt đối lập này là động lực của sự phát triển thế giới.
I.3. Tổ chức thương mại quốc tế - WTO:
Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một “ Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và việc làm” với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập WTO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
WTO thể hiện như người lính canh gác trông coi về mậu dịch quốc tế, liên tục nghiên cứu các chế tài về thương mại của các nước thành viên mình, Trong các tổ chức của mình các thành viên theo dõi và nhắc nhở các biện pháp đã được các nước thành viên đề nghị hay đã soạn thảo mà chúng các thể trở thành nguồn gốc mâu thuẫn trong quan hệ mậu dịch. Trong các trường hợp nếu các mâu thuẫn không thể giải quyết ở mức độ song phương thì sẽ được cơ quan chuyên trách của WTO tiến hành xem xét và giải quyết. Các thành viên của WTO có trách nghiệm thông báo cho WTO tất cả các vấn đề cụ thể về những biện pháp mậu dịch khác nhau và số liệu thống kê để WTO lưu trữ vào ngân hàng dữ liệu của mình.
I.4. Việt Nam ra nhập WTO
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ra. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:“chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Ngay hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” ( Hồ Chí Minh : toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74).
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ra đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng, Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã gia sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thức VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xóa bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ra, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ra tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “ giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là đường lối của Đảng và Nhà nước ta và một trong những điều kiện để quá trình này đạt hiệu quả tốt là chúng ta phải gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Ngày 7/11/2006 tại Geneva đã diễn ra lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới. Sau ba thập kỷ Việt Nam đã thoát ra khỏi cuộc chiến tranh và phát triển kinh tế thị trường, vươn lên trở thành nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai ở châu Á. Việt Nam trở thành thành viên thứ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: : Hội nhập kinh tế quốc tế là sự thống nhất của 2 mặt đối lập. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng đưa đến những thách thức, khó khăn đối với quá trình phát triển của đất nước. a. Từ quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, anh/chị hãy xác định các mặt đối lập trong nội dung trên? (2 điểm) b. Phân tích quá trình thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập ở nội dung trên, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết mâu thuẫn để Việt Nam có thể tận dụng những cơ hội, vượt qua những khó khăn, thách thức (2 điểm) c. Góp phần thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với vai trò là một người lao động trong tương lai, anh/chị hãy đưa ra những định hướng và kế hoạch làm việc của bản thân (1 điểm), quy luật thống nhát và đấu tranh giữa các mặt đối lập và cơ hội và thách thức đang đặt ra với quá trình hội nhập quóc tế ở việt nam
Last edited by a moderator: