Download miễn phí Tiểu luận
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là trong khi số vụ tranh chấp được giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại còn rất khiêm tốn thì hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Pháp lệnh trọng tài thương mại đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Tuy nhiên, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đã có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) đã ra đời để khắc phục những mặt hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của Toà án trong việc hỗ trợ các Trung tâm Trọng tài thương mại. Do đó, em chọn đề tài “Phân tích những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010” để nghiên cứu làm bài tập học kỳ của mình.
NỘI DUNG
I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN
1 – cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trọng tài thương mại là cách giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này. Tại khoản 2 Điều 3 Luật này có quy định về thỏa thuận trọng tài như sau: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hay đã phát sinh”. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại chỉ phát sinh khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài trước hay sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu các bên không có thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại thì Trọng tài thương mại không có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đề cao sự thỏa thuận của các bên trong vụ tranh chấp. Các bên có quyền tự thỏa thuận với nhau về chọn hình thức trọng tài, chọn trọng tài viên, chọn quy tắc tố tụng, địa điểm, thời gian giải quyết tranh chấp...
2 – Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại:
So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án, việc giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài có nhiều ưu điểm như: giải quyết nhanh chóng, dứt diểm các tranh chấp thương mại; đảm bảo được sự thỏa thuận và định đoạt của các đương sự; quyết định của trọng tài là chung thẩm, không bị kháng nghị, kháng cáo; đảm bảo bí mật và giữ uy tín cho các nhà kinh doanh... Là tổ chức phi chính phủ, Trọng tài Thương mại ở tất cả các nước đều không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Điều này tạo nên cho Trọng tài những thuận lợi về việc chủ động trong quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên quyền tự do định đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan đến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cũng đặt ra cho Trọng tài Thương mại những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết Trọng tài. Trên thế giới mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà Trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng tài Thương mại là một sự tiếp sức cho Trọng tài, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá cách giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịnh thương mại. Quá trình tố tụng trọng tài thương mại Những phân tích dưới đây sẽ đi sâu hơn về vấn đề này.
II – SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THEO LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2010
1 – Thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại:
Để phân tích sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại, trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem khi có một tranh chấp thương mại được gải quyết bằng con đường trọng tài thương mại thì tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật TTTM 2010, nếu các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì Tòa án có thẩm quyền được xác định theo khoản 2 Điều này như sau:
- Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hay nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều bị đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hay nơi có trụ sở của một trong các bị đơn đó. Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hay trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hay nơi có trụ sở của nguyên đơn;
- Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp;
- Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định;
- Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có chứng cứ cần được thu thập;
- Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng;
- Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của người làm chứng;
- Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài.
Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài trong những trường hợp trên là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đây là một điểm mới của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Pháp lệnh TTTM 2003 không đưa ra quy định riêng về thẩm quyền của Tòa án mà quy định trong những trường hợp cụ thể tại mỗi điều luật. Luật TTTM 2010 đã xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài, điều này thể hiện mối quan hệ pháp lý quan trọng giữa trọng tài thương mại và tòa án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là trong khi số vụ tranh chấp được giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại còn rất khiêm tốn thì hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Pháp lệnh trọng tài thương mại đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Tuy nhiên, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đã có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) đã ra đời để khắc phục những mặt hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của Toà án trong việc hỗ trợ các Trung tâm Trọng tài thương mại. Do đó, em chọn đề tài “Phân tích những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010” để nghiên cứu làm bài tập học kỳ của mình.
NỘI DUNG
I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN
1 – cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trọng tài thương mại là cách giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này. Tại khoản 2 Điều 3 Luật này có quy định về thỏa thuận trọng tài như sau: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hay đã phát sinh”. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại chỉ phát sinh khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài trước hay sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu các bên không có thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại thì Trọng tài thương mại không có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đề cao sự thỏa thuận của các bên trong vụ tranh chấp. Các bên có quyền tự thỏa thuận với nhau về chọn hình thức trọng tài, chọn trọng tài viên, chọn quy tắc tố tụng, địa điểm, thời gian giải quyết tranh chấp...
2 – Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại:
So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án, việc giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài có nhiều ưu điểm như: giải quyết nhanh chóng, dứt diểm các tranh chấp thương mại; đảm bảo được sự thỏa thuận và định đoạt của các đương sự; quyết định của trọng tài là chung thẩm, không bị kháng nghị, kháng cáo; đảm bảo bí mật và giữ uy tín cho các nhà kinh doanh... Là tổ chức phi chính phủ, Trọng tài Thương mại ở tất cả các nước đều không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Điều này tạo nên cho Trọng tài những thuận lợi về việc chủ động trong quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên quyền tự do định đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan đến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cũng đặt ra cho Trọng tài Thương mại những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết Trọng tài. Trên thế giới mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà Trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng tài Thương mại là một sự tiếp sức cho Trọng tài, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá cách giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịnh thương mại. Quá trình tố tụng trọng tài thương mại Những phân tích dưới đây sẽ đi sâu hơn về vấn đề này.
II – SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THEO LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2010
1 – Thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại:
Để phân tích sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại, trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem khi có một tranh chấp thương mại được gải quyết bằng con đường trọng tài thương mại thì tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật TTTM 2010, nếu các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì Tòa án có thẩm quyền được xác định theo khoản 2 Điều này như sau:
- Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hay nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều bị đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hay nơi có trụ sở của một trong các bị đơn đó. Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hay trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hay nơi có trụ sở của nguyên đơn;
- Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp;
- Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định;
- Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có chứng cứ cần được thu thập;
- Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng;
- Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của người làm chứng;
- Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài.
Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài trong những trường hợp trên là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đây là một điểm mới của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Pháp lệnh TTTM 2003 không đưa ra quy định riêng về thẩm quyền của Tòa án mà quy định trong những trường hợp cụ thể tại mỗi điều luật. Luật TTTM 2010 đã xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài, điều này thể hiện mối quan hệ pháp lý quan trọng giữa trọng tài thương mại và tòa án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links