giaidieuthienthang
New Member
Download Tiểu luận Phân tích quyền và hạn chế quyền của người lập di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành miễn phí
Người lập di chúc có quyền định đoạt một phần hay toàn bộ tài sản của mình sau khi chết để dùng vào việc thờ cúng, tuy nhiên quyền tự định đoạt đó của người lập di chúc cũng bị hạn chế trong hai trường hợp sau :
- Trường hợp thứ nhất, nếu sự định đoạt đó vi phạm quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005. Nếu người lập di chúc định đoạt phần lớn hay toàn bộ di sản dùng vào việc thờ cúng mà xâm phạm đến quyền được hưởng 2/3 suất thừa kế được chia theo pháp luật của cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hay đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì trước hết phải tính phần thừa kế cho những người này theo quy định tại điều 669, phần còn lại là di sản dùng vào việc thờ cúng.
- Trường hợp thứ hai, quyền của người lập di chúc định đoạt di sản dùng vào việc thờ cúng bị hạn chế trong trường hợ toàn bộ tài sản của người đó để lại không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng ( khoản 2 Điều 699).
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
i lập di chúc tuyên bố minh bạch, công khai trong di chúc là một hay nhiều người thừa kế theo pháp luật nào đó không có quyền hưởng di sản.Truất quyền hưởng di sản không được nói rõ: là người lập di chúc chỉ định một hay nhiều người để hưởng toàn bộ di sản nhưng lại không nói gì đến những người thừa kế theo pháp luật không được chỉ định.Khi đó người không được chỉ định trong di chúc trở thành người bị truất quyền hưởng di sản không được nói rõ. Theo quan điểm này,người bị truất quyền hưởng di sản không mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định.
Quan điểm khác cho rằng,chỉ coi người thừa kế theo pháp luật bị truất quyền hưởng di sản nếu trong di chúc, người lập di chúc đã nói rõ là truất quyền hưởng di sản của họ. Khoản 1, điều 648 BLDS 2005 quy định người thừa kế có quyền “truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”. Theo quy định này, người bị truất quyền bao giờ cũng là người thừa kế theo luật và vì thế, khi họ bị truất quyền đó thì đương nhiên họ không phải là người thừa kế theo luật của người lập di chúc nữa. Nói cách khác, người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản thừa kế mà họ có được do luật định.
Người thừa kế theo pháp luật nhưng không được chỉ định trong di chúc thì khác với người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản, vì họ là những người không được hưởng di sản theo di chúc nhưng họ không bị mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định. Chính vì vậy, tình trạng của người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản với người không được chỉ định trong di chúc là hoàn toàn khác nhau:
Người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản là trường hợp người thừa kế theo pháp luật bị người để lại thừa kế nói rõ trong di chúc về việc truất quyền hưởng di sản của họ. Trong trường hợp di chúc bị vô hiệu toàn bộ, tức là việc truất quyền hưởng di sản cũng bị vô hiệu thì tư cách người thừa kế theo luật của những người này không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên trong trường hợp di chúc có hiệu lực toàn bộ hay vô hiệu một phần mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc truất quyền hưởng di sản thì tư cách người thừa kế theo luật của họ đương nhiên bị mất. Vì vậy trong trường hợp này, nếu có phần di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu được chia theo luật thì người đó vẫn không được hưởng. Ví dụ: ông T có số di sản trị giá 300.000.000 đồng, có bốn người thừa kế ở hàng thứ nhất là E, F, G, H. Trước khi chết ông có lập di chúc, trong đó truất quyền hưởng di sản của H và cho E,F,G hưởng những phần di sản bằng nhau. Khi giải quyết thừa kế, vì E từ chối nhận di sản của ông T nên phần di sản của E se được tiến hành chia theo pháp luật. Tuy nhiên do H đã bị truất quyền hưởng di sản nên H cũng không phải là người thừa kế theo luật nữa, phần di sản ( trị giá 100.000.000 đồng) của E chỉ được chia cho hai người thừa kế theo luật còn lại của ông T là F và G được hưởng.
Người thừa kế không được hưởng di sản theo di chúc là người không được người lập di chúc chỉ định hưởng di sản. Trong những trường hợp người để lại di sản lập di chúc trong đó xác định người thừa kế theo di chúc của mình thì những người thừa kế theo pháp luật nào không có tên sẽ là người không được hưởng di sản theo di chúc. Ngoài ra cũng có trường hợp người lập di chúc đã định đoạt hết tài sản thì những người thừa kế theo luật không được người lập di chúc định đoạt cho phần tài sản nào cũng là người không được hưởng di sản.Tóm lại, vì người thừa kế không được hưởng di sản theo di chúc là người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật nên nếu có một phần di sản nào đó được chia theo pháp luật thì họ vẫn sẽ được hưởng. Ví dụ, trong trường hợp nêu trên, H không bị truất quyền hưởng di sản nhưng ông T cũng không để lại di sản cho H, đến lúc giải quyết thừa kế, vì E từ chối nhận di sản nên phần di sản đó sẽ được chia đều cho cả F, G và H.
Phân định di sản cho từng người thừa kế
Là việc quyết định người thừa kế theo di chúc được hưởng di sản như thế nào (một phần di sản là bao nhiêu, một số hiện vật nhất định hay một số tiền nhất định trong khối tài sản).
Nếu người lập di chúc cho một người hưởng toàn bộ di sản, thì khi chia di sản cần lưu ý đến việc dành lại một phần di sản cho cha,mẹ,vợ,chồng,con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Nếu chỉ định nhiều người thừa kế tho di chúc thì người lập di chúc cần phân định rõ mỗi người thừa kế được hưởng những phần di sản trong khối di sản như thế nào? Nếu người lập di chúc không phân định rõ phần quyền của mỗi người thừa kế, thì mỗi người thừa kế được hưởng phần tài sản ngang nhau.
Theo luật định, người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thêt cho người thừa kế nào hưởng phần di sản là bao nhiêu, vì vậy quyền phân định di sản của người lập di chúc được xem xét dưới ba góc độ sau:
Phân định tổng quát: là trường hợp không xác định rõ phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng. Theo góc độ này, nếu trong di chúc chỉ có một người thừa kế thì toàn bộ di sản sẽ thuộc về người đó. Nếu di chúc chỉ định nhiều người thì di sản được chia đều cho những người có tên trong danh sách, nếu những người này có sự thỏa thuận thì việc phân chia di sản sẽ tuân theo sự thỏa thuận đó.
Phân định theo tỷ lệ: là trường hợp di chúc nói rõ mỗi người thừa kế được hưởng một phần di sản theo một tỷ lệ nhất định so với tổng giá trị của di sản.Vì vậy, khi phân chia di sản theo di chúc thì mỗi người thừa kế được hưởng phần di sản theo tỷ lệ đã được định sẵn trên tổng số di sản đang còn vào thời điểm phân chia. Nếu có phần di sản không còn do người thừa kế đã sử dụng hết hay đã định đoạt thì vẫn tính vào tổng giá trị khối di sản.
Phân định cụ thể: là trường hợp người để lại di sản xác định rõ người thừa kế nào được hưởng di sản là hiện vật gì... Vì vậy khi phân chia di sản, các thừa kế được nhận hiện vật theo sự xác định trong di chúc.
Dành một phần di sản để di tặng
Người để lại di sản có quyền dành một phần trong khối di sản để tặng cho người khác thông qua việc thể hiện ý nguyện trong di chúc. Tài sản tặng cho này gọi là vật di tặng.
Về nguyên tắc, hiệu lực của việc di tặng được xác định theo hiệu lực của di chúc. Nghĩa là việc di tặng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người lập di chúc chết và người được di tặng phải còn sống vào thời điểm đó. Mặt khác, người nhận tài sản di tặng được coi là một bên trong hợp đồng tặng cho nên họ được hưởng di sản mà không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Đồng thời, vì di tặng trong bộ luật dân sự chỉ là một hành vi dân sự đơn phương nên không cần sự chấp thuận của người thụ tặng, di chúc vẫn được coi là hợp pháp. Nó chỉ bị thất hiệu, nếu sau khi người l...