selfish_vn
New Member
Download Đề tài Phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất lúa tại 2 địa bàn - Cần Thơ và Sóc Trăng miễn phí
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Tóm tắt 1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG 2
1.1. Đặt vấn đề 2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 4
1.3. Phương pháp nghiên cứu 4
1.4. Phạm vi nghiên cứu 6
1.5. Nội dung nghiên cứu 7
CHƯƠNG 2. XU HƯỚNG ÁP DỤNG KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG NÔNG NGHIỆP 8
2.1. Khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp 8
2.2. Tác động của khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa 9
2.3. Một số kết quả nghiên cứu liên quan 11
CHƯƠNG 3. TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN LỰC CỦA NÔNG HỘ SẢN XUẤT LÚA 13
3.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu 13
3.2. Đánh giá thực trạng sản xuất lúa của nông hộ 17
3.3. Hoạt động hỗ trợ khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa 25
3.4. Đánh giá của nông dân, cán bộ quản lý khi áp dụng khoa học kỹ thuật 27
CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA THEO CÁC MÔ HÌNH 30
4.1. Đánh giá chung kết quả sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2005 – 2006 30
4.2. Phân tích hiệu quả sản xuất theo các mô hình 34
4.3. Phân tích các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất 41
4.4. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lúa 43
4.5. Một số nhận định của nông dân về hiệu quả sản xuất 46
4.6. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sản xuất 47
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ BIỆN PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Một số biện pháp liên quan đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật 50
Tài liệu tham khảo 53
Phụ lục 55
Lúa được xem là cây trồng chủ yếu ở các nước Châu Á và sản phẩm lúa gắn liền với đời sống con người gần 10.000 năm, riêng khu vực Châu Á với hơn 3 tỷ dân đang sản xuất và tiêu dùng hơn 90% sản lượng gạo của thế giới. Cuộc cách mạng “xanh” đã giúp các nước Châu Á tránh được tình trạng thiếu lương thực và cải thiện đời sống vùng nông thôn xuất phát từ việc giảm được 30% chi phí sản xuất nhờ áp dụng kỹ thuật sản xuất cải tiến. Trong những năm gần đây, sản lượng tiêu thụ gạo tại một số nước thuộc Châu phi, Châu mỹ và Châu âu có xu hướng tăng lên mặc dù gạo không phải nguồn lương thực chính đối với họ. Năm 2002, hơn 50% dân số thế giới phụ thuộc vào sản phẩm gạo và gạo trở thành nguồn cung cấp calories và protêin hàng ngày cho con người (Oladele, O.I và Sakagami, J-I, 2004).
Thực trạng sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã trì trệ ở thập niên 1960 và tăng nhẹ vào những năm 1970, trong giai đoạn này không có sự mở rộng diện tích cũng như tăng năng suất do ảnh hưởng của chiến tranh. Tuy nhiên, đến những năm sau thập niên 1980, 1990 thì sản xuất lúa gạo đạt tốc độ tăng trưởng cao bình quân 5%/năm trong giai đoạn 1980 – 2000; trong đó, tăng năng suất đóng góp 3,5% và tăng diện tích canh tác chiếm 1,5% (Trần Thị Út, 2002). Với tốc độ tăng trưởng trên đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất của thế giới từ năm 1989; cụ thể năm 2005, sản lượng gạo xuất khẩu trên 5,2 triệu tấn đạt kim ngạch trên 1,2 tỷ đôla (Thời báo Kinh tế Việt Nam, 20/02/2006). Thành tựu về sản xuất lúa gạo trong thời gian xuất phát từ những nguyên nhân sau đây: thứ nhất, chính sách mở cửa nền kinh tế khởi động từ năm 1986 đã tạo điều kiện cho cho việc tự do hóa sản xuất hướng theo thị trường; thứ hai, chính sách xác định quyền sử dụng đất của nông hộ và miễn giảm thuế nông nghiệp (Irving, 1995; Pingali. P và V.T. Xuân, 1992).
Ngày nay, xu thế phát triển của các hoạt động kinh tế đã và đang dẫn đến việc đô thị hóa các vùng nông thôn chuyên sản xuất nông nghiệp. Điều này làm giảm diện tích đất canh tác ở một số vùng trong cả nước cũng như ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng như Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An là các tỉnh điển hình. Đồng thời, theo báo cáo của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) năm 2003, các chuyên gia nhận rằng diện tích đất canh tác nông nghiệp sẽ bị giảm đáng kể và thậm chí sẽ không thể sử dụng để sản xuất do bị ô nhiễm bởi chất thải và hóa chất được sử dụng trong sản xuất.
Do vậy, để có thể duy trì mức sản lượng nông sản, đặc biệt là lúa gạo nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như ổn định mức sản lượng gạo xuất khẩu thì các nước sản xuất nông nghiệp đều xem việc áp dụng kỹ thuật mới theo hướng sản xuất bền vững là một trong những giải pháp ưu tiên được chọn trong quá trình sản xuất nông nghiệp và ở Việt Nam. Điều này cũng đang được thực hiện; đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu long.
Theo một số nghiên cứu trước đây cho thấy, việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa có thể làm giảm chi phí khoảng 22% và là tăng thu nhập khoảng 29% (Huỳnh Thanh Chí, 2004). Các mô hình kỹ thuật mới được áp dụng phổ biến như IPM, sạ hàng, bảng so màu lá lúa… Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng, một số địa phương thì áp dụng kỹ thuật mới mang lại hiệu quả kinh tế, nhưng các địa phương khác lại thất bại. Thậm chí theo phát biểu của các cán bộ nông nghiệp một số tỉnh như Sóc Trăng, An Giang cho rằng, một số địa phương, hay nông hộ không muốn áp dụng kỹ thuật mới. Vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta cần xem xét những yếu tố gì cũng như các chính sách liên quan trước khi triển khai việc ứng dụng kỹ thuật mới cho nông hộ; đồng thời phân tích việc khai thác các nguồn lực sẵn có của nông hộ trong quá trình sản xuất.
Chúng ta có thể thấy rằng phân tích việc áp dụng khoa học kỹ thuật trở thành là trong những vấn đề cần thiết hiện nay, nhằm mục đích chỉ ra những mặt tích cực cũng như những hạn chế về mặt nguồn lực, chính sách trong quá trình triển khai. Và cuối cùng là đưa ra các đề xuất thiết thực trong việc áp dụng kỹ thuật phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế đối với nông hộ. Xuất phát từ hoạt động sản xuất thực tiễn và những định hướng sản xuất mang tính bền vững trong tương lai đối với nông hộ sản xuất nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đề tài này sẽ đi vào “Phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất lúa tại 2 địa bàn: Cần Thơ và Sóc Trăng”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung: Phân tích thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật sản xuất lúa của nông hộ, đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình áp dụng kỹ thuật và phân tích những thuận lợi và rào cản trong quá trình sản xuất nhằm mục đích đề xuất những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông hộ.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Mô tả thực trạng sản xuất của nông hộ liên quan các nguồn lực sẵn có;
Nhận định và phân tích các hoạt động hỗ trợ áp dụng kỹ thuật;
Đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình áp dụng kỹ thuật; và
Đề xuất các biện pháp phát huy các mặt tích cực và khắc phục những hạn chế trong quá trình triển khai và áp dụng kỹ thuật đối với nông hộ.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Chọn địa bàn nghiên cứu:
Khảo sát nông hộ sản xuất lúa tại các huyện: Cờ đỏ, Ô môn (TP.Cần Thơ) và Mỹ Tú (Sóc Trăng). Phương pháp chọn địa bàn khảo sát dựa theo các tiêu chí sau:
Tham khảo số liệu từ Niên giám thống kê cấp tỉnh và chọn huyện có diện tích sản xuất lúa tương đối lớn.
Địa bàn khảo sát gần với các trung tâm chuyển giao khoa học kỹ thuật như Viện lúa ĐBSCL, Trung tâm khuyến nông… nhằm mục đích quan sát khả năng chuyển giao cũng như việc tiếp cận thông tin kỹ thuật của nông dân.
Cách chọn nông hộ để phỏng vấn theo hướng dẫn của cán bộ địa phương và phân tầng số mẫu theo mô hình canh tác, qui mô sản xuất, số năm áp dụng kỹ thuật, thu nhập của nông hộ.
Bảng 1-1 Mô tả địa bàn nghiên cứu và thông tin nông hộ
Tỉnh
Địa bàn khảo sát
Số mẫu
Tỷ trọng
Mô hình ứng dụng
Thông tin thu thập
TP.Cần Thơ
Thới Lai
65
24,90
IPM, sạ hàng, giống mới, 3 giảm – 3 tăng,
lúa - màu,
lúa - thủy sản
Nguồn lực của nông hộ, khả năng tiếp cận thông tin KHKT, mức độ hưởng lợi từ KHKT, hiệu quả sản xuất của nông hộ đối với sản xuất lúa và những chính sách tác động
Last edited by a moderator: