Abukcheech
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong thời kỳ đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế quyết định chính trị.
“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyninh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khẳng định: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích “Và trong tác phẩm” Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F. Engen đã chỉ rõ: "Để thoả thuận những lợi ích
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-04-01-tieu_luan_phep_bien_chung_ve_mau_thuan_va_van_dung.ysTfc9OL7h.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-66818/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt, người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyễn hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao, chính vì vậy Lênin khẳng định “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
2. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập :
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.
Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai cách:
+ cách thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
+ cách thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quan niệm mới.
Như chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là đặc trưng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Nền kinh tế tập trung đã được các nước Tư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng các nước TBCN đã xoá bỏ cơ chế thị trường sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Nhưng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đảng ta một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
+ Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt nam nhìn từ góc độ triết học.
Nền kinh tế nước ta hiện nay, có thể nói, đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đè có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét.
Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung-bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối... khá nặng nề. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Thành tựu những năm đổi mới ở nước ta vừa qua đã có tác dụng làm cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này, một số cho rằng: “ở Việt nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá ... “Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính - bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị “khúc xạ” theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Vai trò của Nhà nước và của nền kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là điều không phải bàn cãi. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt t...