Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc
tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1
I. Quan hệ kinh tế quốc tế 1
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế 1
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế 2
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế 3
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế 9
IV. Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế 11
1. Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế 11
1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế 11
1.2 Những quan điểm chỉ đạo 12
1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010 13
2. Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và
trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng
15
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
Quốc giai đoạn 1992 – 2003
18
I. Khái quát chung 18
II. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc 20
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc 20
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
3
2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc 26
2.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc 26
2.1 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc 29
III. Quan hệ đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc 32
1. Khái quát chung 32
2. Lĩnh vực đầu tư 36
3. Địa bàn đầu tư 37
4. Hình thức đầu tư 40
IV. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác 44
1. Viện trợ không hoàn lại 44
2. Tín dụng ưu đãi 47
3. Xuất khẩu lao động 48
V. Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc 51
1. Đánh giá tổng quát 51
1.1 Về phía Việt Nam 51
1.2 Về phía Hàn Quốc 53
2. Những điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn
Quốc
54
3. Những hạn chế, khó khăn và một số vấn đề cấp bách đặt ra cho
quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
56
Chương III. Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc
60Kho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
4
I. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
Quốc trong thời gian tới
60
II. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc 63
1. Giải pháp về môi trường, thể chế 63
2. Giải pháp cho quan hệ thương mại 65
2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam 65
2.2 Xây dựng cách bán hàng hiệu quả 67
2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại 68
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư 71
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm
dẻo
71
3.2 Phát triển cơ sở hạ tầng 73
3.3 Cải cách thủ tục hành chính 74
3.4 Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện
liên doanh, liên kết có hiệu quả
75
4. Giải pháp cho quan hệ xuất khẩu lao động 76
4.1 Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách 77
4.2 Chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu 77
4.3 Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu 78
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
5
CHƯƠNG I:
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH QUAN HỆ KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
Ngay từ lúc mới xuất hiện, con người đã luôn có nhu cầu trao đổi với
nhau để tồn tại. Khi xã hội loài người phát triển lên những cấp độ cao hơn,
cùng với sự ra đời của bộ tộc, làng xã, nhà nước, nhu cầu trao đổi đó càng
được mở rộng. Sự trao đổi không chỉ dừng lại giữa cá nhân này với cá nhân
khác mà đã phát triển thành mối quan hệ tuỳ từng trường hợp và tác động qua lại lẫn
nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Trong nền kinh tế thế giới hiện
nay, mối quan hệ đó chính là quan hệ kinh tế quốc tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế được hiểu là tổng thể các mối quan hệ vật chất,
tài chính có liên quan đến tất các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra
giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ
yếu bao gồm:
Quan hệ kinh tế quốc tế về trao đổi hàng hoá (hay còn gọi là mậu dịch
quốc tế): là một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu, trong đó diễn ra
việc di chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác. Di chuyển hàng hoá
quốc tế được thực hiện thông qua hình thức buôn bán quốc tế. Trên thị trường
thế giới, người ta thường chia hàng hoá trao đổi giữa các nước thành hai nhóm:
hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển vốn đầu tư (hay còn gọi là đầu tư
quốc tế): Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển các phương tiện đầu tư từKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
6
nước này sang nước khác nhằm thu lợi nhuận. Đầu tư quốc tế thực chất là di
chuyển các yếu tố sản xuất trên qui mô toàn thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển sức lao động: là quan hệ kinh tế
quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển sức lao động từ nước này sang nước
khác trên phạm vi thế giới. Di chuyển quốc tế sức lao động được coi như di
chuyển hàng hoá quốc tế, nhưng đó là loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức
lao động, trên thị trường đặc biệt - thị trường sức lao động. Loại quan hệ kinh
tế quốc tế này dẫn đến việc di dân trên phạm vi thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ: Trong điều
kiện hiện nay hình thức này được thể hiện phổ biến dưới dạng chuyển giao
công nghệ: buôn bán Licence, Know - how, Engineering…
Quan hệ tiền tệ quốc tế: là một loại quan hệ kinh tế quốc tế trong đó
diễn ra sự di chuyển các phương tiện tiền tệ từ nước này sang nước khác trên
qui mô quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các quan hệ buôn bán, đầu tư.
Tiền tệ với chức năng tiền tệ thế giới làm trung gian cho các quan hệ hàng hoá,
di chuyển vốn cũng như các quan hệ khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan
hệ này.
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hệ thống kinh tế thế giới, mỗi quốc gia không thể tồn tại và phát
triển mà không có mối quan hệ trao đổi với quốc gia khác. Điều này càng có ý
nghĩa trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
và trở thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia. Do đó quan hệ kinh tế quốc tế
luôn giữ một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi nước.
Quan hệ kinh tế quốc tế được xem như một biện pháp nhằm bổ sung
nguồn lực cho phát triển kinh tế của các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
7
ngoại sẽ giúp các quốc gia tiếp thu vốn và công nghệ tiên tiến để thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng năng động, tăng trưởng với tốc độ cao. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với các quốc gia đang phát triển khi mà nền kinh tế còn nghèo, trình độ phát
triển còn thấp. Vốn và công nghệ hiện đại giúp các quốc gia này nâng cao trình
độ sản xuất trong nước, góp phần rút ngắn cách biệt về kinh tế với các nền
kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, thị trường nội địa của một nước thường chật hẹp, không đủ
để đảm bảo phát triển nền công nghệ với quy mô sản xuất hàng loạt. Điều này
cho thấy chỉ có mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại mới khắc phục được hạn
chế trên. Tăng cường quan hệ với các nước giúp mở rộng thị trường tiêu thụ,
góp phần tăng thu ngoại tệ đồng thời thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Hơn nữa, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại còn giúp khai thác triệt
để các thế mạnh của mỗi nước, nâng cao đời sống người dân, tạo điều kiện
củng cố hoà bình, ổn định.
Riêng đối với các nước công nghiệp phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại tạo thuận lợi cho việc bành trướng nhanh chóng sức mạnh kinh tế
của các nước như: tìm kiếm thị trường mới để giải quyết khủng hoảng thừa của
hàng hoá; tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi hơn, đem lại lợi nhuận cao hơn; giảm
được chi phí sản xuất do tận dụng được nguồn lao động và tài nguyên rẻ ở các
nước đang và kém phát triển.
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế là bộ phận cốt lõi tạo nên tính hữu cơ của nền
kinh tế thế giới, nhờ đó mà các nền kinh tế quốc gia có thể liên kết với nhau
thành một thể thống nhất. Do đó, quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc
tế chính là sự phản ánh quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới mà ở đóKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
8
nền kinh tế của các quốc gia phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì
vậy mà ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thế giới, các quan
hệ kinh tế quốc tế cũng có những điểm khác biệt nhất định.
1. Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế thế giới đang ở thời kì Chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh, phân công lao động quốc tế từ chỗ sử dụng những khác biệt
về điều kiện tự nhiên đã phát triển thành phân công lao động quốc tế tư bản
chủ nghĩa được thực hiện thông qua buôn bán quốc tế. Sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất ở một số nước dẫn tới nhu cầu mở rộng thị
trường và nơi tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận. Đồng thời, phân công lao
động quốc tế tư bản chủ nghĩa làm tăng nhanh sự phát triển không đồng đều
của chủ nghĩa tư bản, làm sâu sắc thêm sự cách biệt trình độ phát triển kinh tế
giữa một nhóm nhỏ các nước công nghiệp phát triển với phần còn lại của thế
giới. Do đó, quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này thường chỉ diễn ra
giữa một số nước tư bản.
2. Giai đoạn phát triển thứ hai, bắt đầu từ cuối thế kỉ 19, nền kinh tế thế giới
chuyển sang thời kì Chủ nghĩa đế quốc. Phân công lao động quốc tế thời kỳ
này được biểu hiện trước hết bằng sự thống trị thị trường trong và ngoài nước
của các liên minh độc quyền phát triển nhất trên thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế
trong giai đoạn này do đó là sự liên minh giữa các nhà tư bản dựa trên sự phân
chia thế giới về mặt kinh tế, là liên minh chính trị giữa các nhà nước với nhau
dựa trên việc phân chia lãnh thổ thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng song
song tồn tại mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa. Các quan hệ thực dân
này đã khiến cho các cường quốc công nghiệp phát triển liên hệ chặt chẽ với
lãnh thổ hải ngoại rộng lớn mà ở đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
9
còn rất thấp và quan hệ sản xuất này còn mang tính chất của cách sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Do đó, nét nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời kì này là xuất
khẩu tư bản từ chính quốc vào thuộc địa. Trong các nước tư bản công nghiệp
phát triển, quá trình tập trung sản xuất vào tay các tổ chức độc quyền diễn ra
mạnh mẽ, gắn liền với việc tăng nhanh tích luỹ tư bản và năng suất lao động.
Sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Ngược lại, ở một số nước thuộc
địa và phụ thuộc lại diễn ra quá trình lạc hậu và ngừng trệ về trình độ phát
triển kinh tế. Đây chính là hình thức đặc trưng của mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, mâu thuẫn giữa các cường
quốc trong việc chạy đua theo lợi nhuận tối đa và cạnh tranh giành sự thống trị
thị trường thế giới ngày càng gay gắt.
3. Giai đoạn thứ ba của nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng sự thắng lợi
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười và sự xuất hiện một nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự thắng lợi này và sự hình thành
của nhà nước công nông tách khỏi hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa dẫn đến
sự phá vỡ nền kinh tế thế giới chủ nghĩa tư bản thống nhất. Trên thế giới, bên
cạnh hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã tồn tại loại hình kinh tế - xã
hội xã hội chủ nghĩa, trong đó nền kinh tế - xã hội phát triển theo những quy
luật hoàn toàn khác với quy luật của chủ nghĩa tư bản.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh quan hệ giữa các nước trong hệ
thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện quan hệ giữa một bên là
Liên Xô với bên kia là thế giới tư bản với quy mô hạn chế. Các quan hệ này
chủ yếu là quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể bình đẳng của nền kinh
tế thế giới. Giai đoạn phát triển này của nền kinh tế thế giới kéo dài đến sau
đại chiến thế giới lần thứ II, khi mà trên thế giới ngoài Liên Xô còn xuất hiệnKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
10
hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Âu và châu Á hình thành nên
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và nền kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi kinh tế thế giới tồn tại hai hệ thống đối lập: xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa. Mỗi hệ thống kinh tế đều phát triển theo những quy luật
riêng của mình và cơ cấu kinh tế xã hội bên trong của nó hoàn toàn khác nhau.
Song, đồng thời giữa hai hệ thống còn tồn tại những quan hệ lẫn nhau và cả hai
hệ thống đều tham gia vào phân công lao động quốc tế quốc tế và buôn bán
quốc tế như những bạn hàng bình đẳng.
Các quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này phát triển hết sức phức
tạp. Mỗi hệ thống kinh tế đều có kiểu quan hệ riêng của mình, về bản chất nó
được xác lập trên những nguyên tắc hoàn toàn đối lập nhau. Trong hệ thống
kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc
dần dần được xoá bỏ và đã hình thành các nước mới độc lập - các nước đang
phát triển. Mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa chuyển thành mâu thuẫn
giữa các nước tư bản công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Đồng
thời những mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nước đế quốc chủ nghĩa cũng ngày
càng thêm gay gắt và triền miên. Tất cả những điều đó đã đẩy chủ nghĩa tư bản
vào cuộc tổng khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Bên cạnh đó địa vị kinh tế của
các nước đang phát triển ngày càng được củng cố và sự phát triển của nó có
ảnh hưởng không những đến sự tồn tại của hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa
mà còn ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế nói chung. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế ở giai đoạn này, mâu thuẫn cơ bản cũng là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh kinh tế giữa hai
hệ thống.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
11
4. Giai đoạn hiện đại của nền kinh tế thế giới là giai đoạn mà ở đó các nhóm
nước trong nền kinh tế thế giới được hình thành chủ yếu dựa vào trình độ phát
triển kinh tế và khu vực địa lý. Một thế giới đa cực đang hình thành.
Sau khi Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa châu Âu tan rã, các
cường quốc phương Tây trở thành những thế lực chủ yếu chi phối cục diện
kinh tế - chính trị thế giới. Tỷ trọng các nước đang phát triển trong sản xuất
công nghiệp thế giới chỉ chiếm một phần nhỏ, 2/3 quan hệ buôn bán quốc tế
của các nước đang phát triển gắn với các nước phát triển, chỉ 1/3 còn lại là các
nước phát triển với nhau; 95% vốn đầu tư nước ngoài xuất phát từ các nước
phát triển, trong số đó chỉ có 1/4 đi vào các nước đang phát triển phần còn lại
tập trung chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển.
Hoà nhập vào nền kinh tế thế giới trong thế so sánh lực lượng không có
lợi, các nước đang phát triển luôn tìm cách vươn lên để hạn chế thiệt thòi của
kẻ yếu. Nhiều nước Đông Á đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có những chính sách,
những biện pháp thích hợp nhờ đó đã duy trì được nhịp tăng trưởng đáng kể.
Do nhịp độ tăng trưởng của các nước đang phát triển nói chung nhích
lên trong khi nhịp độ tăng trưởng ở các nước phát triển hầu như dậm chân tại
chỗ, các nước phát triển có xu hướng bám chặt hơn, thậm chí tăng cường các
biện pháp o ép đối với các nước đang phát triển để giữ vững lợi thế so sánh
của mình trong quan hệ hợp tác. Đồng thời cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các
nước đang phát triển gay gắt lên thêm.
Từ tình hình trên, xu hướng khu vực hoá trong các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển có thể nhằm tăng cường lợi thế của mỗi nhóm
nước trong hợp tác với các nước ngoài khu vực và thực tế cho thấy quá trình
này đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao
trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, tổ chứcKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
12
sản xuất, nghiên cứu khoa học công nghệ cũng như các lĩnh vực giáo dục đào
tạo, văn hoá, lối sống… Hiện nay trên thế giới đã hình thành nhiều liên kết khu
vực như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Nhóm các nước phát triển (G7), Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…Tuy
nhiên do xu hướng, xu thế chung của khu vực hoá sẽ không thể sống nếu tách
rời hay đi ngược lại với toàn cầu hoá trong hợp tác kinh tế. Điều đó là do các
vấn đề toàn cầu hoá ngày càng trở nên gay gắt như vấn chiến tranh và hoà
bình, đề lương thực, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề dân số…trong đó nổi
cộm nhất hiện nay là vấn đề chống khủng bố trên toàn thế giới. Vụ khủng bố
kinh hoàng diễn ra trên đất Mỹ ngày 11/9/2001 mới đây là một minh chứng
điển hình cho tính tất yếu của hợp tác toàn cầu.
Giữa các nước đang phát triển với nhau, một mặt có nhu cầu liên kết tự
nhiên giữa những người đồng cảnh, mặt khác do nhu về vốn ngày càng tăng
trong khi tỷ trọng FDI vào các nước này không tăng hay ngày càng giảm, sự
cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư ngày càng gay gắt hơn. Các nguồn viện trợ và
cho vay dành cho các nước đang phát triển nói chung ngày càng giảm, trừ một
số ít nước có khả năng trả nợ tin cậy.
Các dự báo trên thế giới gần như thống nhất rằng trong nửa đầu thế kỉ
21, châu Á - Thái Bình Dương với tiềm năng phong phú, chức năng độc lập,
nhịp độ tăng trưởng thần kì và bước đi tương đối vững chắc sẽ trở thành trung
tâm kinh tế thế giới, thậm chí có dự báo cho rằng trung tâm kinh tế thế giới
chuyển từ châu Âu sang châu Á trong đó nổi lên là Đông Á - Tây Thái Bình
Dương.
Do qui luật cạnh tranh và thời gian đã trở nên thúc bách các cường quốc
kinh tế cả trong và ngoài khu vực đều phải tính đến việc cầm chân và phát
triển ảnh hưởng ở khu vực này. Gần đây đã xuất hiện nhiều động thái cho thấy
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
13
sự bắt đầu quan tâm (hay quan tâm nhiều hơn) của các nước lớn đối với khu
vực này, không những từ Nhật, Trung Quốc mà còn cả từ một số nước Tây Âu
và Mỹ, cụ thể là việc thành lập khối liên kết ASEAN + 3 gồm Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn quốc và khối liên kết ASEAN + 1 với riêng từng nước. Mục
tiêu của họ không chỉ đơn thuần là đi tìm lợi nhuận cao, hay vì yêu cầu nhân
đạo giao lưu văn hoá, mà còn nhằm cân bằng và giành giật ảnh hưởng với
nhau, tiến tới đưa khu vực này đi theo quỹ đạo của họ.
Có thể nói quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra
hết sức phức tạp, sâu sắc và rộng khắp. Trong quan hệ đó, có sự tham gia của
mọi quốc gia, mọi thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Khu vực hoá, toàn cầu hoá do đó là xu thế đặc trưng của quan hệ
kinh tế quốc tế thời kì này. Các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tăng
cường sự phụ thuộc lẫn nhau và đang dần từng bước tạo nên một nền kinh tế
thế giới thống nhất.
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế
Tiền đề cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế là phân công lao động quốc
tế. Trong giai đoạn đầu, những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế đơn giản nhất
xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của từng nước. Sự khác nhau
về tài nguyên thiên nhiên, về khoáng sản, khí hậu…đã trở thành tiền đề tự
nhiên của phân công lao động quốc tế, là cơ sở đầu tiên cho việc trao đổi hàng
hoá giữa các ngành và các quốc gia.
Trong những thời kì sau, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật,
phân công lao động quốc tế ngày càng được mở rộng. Ý nghĩa của điều kiện tự
nhiên như một yếu tố nguyên thuỷ của phân công lao động quốc tế đã bị giảm
một cách tương đối và ý nghĩa của phân công lao động trong nội bộ ngành
được nâng cao. Chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế do đó ngày càng trở nênKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
14
sâu sắc, mậu dịch quốc tế càng phát triển nhanh chóng. Giữa các quốc gia
trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng cường mối quan hệ trao đổi và phụ
thuộc lẫn nhau. Nền sản xuất vật chất đã vượt qua khuôn khổ của các nước
riêng lẻ và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng tỉ mỉ,
sâu sắc và chặt chẽ hơn. Phân công lao động quốc tế giờ đây không chỉ dừng
lại ở việc trao đổi hàng hoá mà được mở rộng trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học kỹ thuật; trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đời sống kinh tế và là
một tất yếu khách quan của thời đại. Việc áp dụng những thành tựu khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất để mở rộng thị trường
thế giới và tăng nhanh các quan hệ kinh tế quốc tế. Có thể nói phân công lao
động quốc tế luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của các mối quan hệ kinh
tế quốc tế.
Cùng với phân công lao động quốc tế, lợi thế so sánh cũng là một cơ sở
quan trọng của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong thời kì đầu, lợi thế so sánh
chính là sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất bao gồm vốn,
lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu… của quốc gia này so với quốc gia khác.
Chính sự ưu đãi này đã khiến cho các nước có chi phí cơ hội thấp hơn trong
việc sản xuất một số sản phẩm hàng hoá nhất định và sẽ thu được lợi khi đem
xuất khẩu hàng hoá đó để đổi lấy sản phẩm hàng hoá cần nhiều chi phí hơn.
Nhu cầu trao đổi, buôn bán do đó cũng xuất hiện. Lợi thế so sánh đã đem lại
lợi ích cho tất cả các quốc gia khi tham gia vào phân công lao động quốc tế,
thúc đẩy sự tích cực tham gia của các nền kinh tế vào các hoạt động quan hệ
kinh tế quốc tế.
Trong những giai đoạn sau, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
công nghệ dần trở thành một yếu tố đầu vào mang tính chất quyết định đối với
sự phát triển sản xuất của mỗi quốc gia. Lợi thế so sánh do đó cũng được mở
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
15
rộng, bao gồm cả công nghệ, dây chuyền sản xuất. Những quốc gia có trình độ
khoa học công nghệ hiện đại sẽ giảm được chi phí sản xuất, tăng chất lượng và
sản lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quan hệ
buôn bán, trao đổi với các quốc gia khác. Lợi thế so sánh thật sự đã trở thành
cơ sở để các nước tham gia vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế khi đem lại lợi
ích thương mại cho các quốc gia đó.
Bên cạnh đó, sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế cũng gắn liền với
sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Khi các nền kinh tế còn ở trình độ phát
triển thấp, quan hệ giữa các nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi hiện vật, đổi
hàng lấy hàng. Chính sự phát triển về khoa học công nghệ, sự phát triển và
hoàn thiện các phương tiện giao thông vận tải, liên lạc đã làm cho các bộ phận
của nền kinh tế thế giới ngày càng xích lại gần nhau và mở rộng không ngừng
các quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực trên thế giới. Các quan hệ kinh
tế quốc tế bây giờ không chỉ đơn thuần bao gồm việc trao đổi hàng hoá mà còn
được mở rộng sang nhiều hoạt động khác. Sự xuất hiện và phát triển không
ngừng của khoa học, công nghệ đã dẫn đến nhu cầu chuyển giao những công
nghệ cũ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển vốn rất thiếu dây
chuyền công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất trong nước. Cũng nhờ sự
phát triển kinh tế, dẫn đến dư thừa vốn ở một số nước phát triển, hoạt động di
chuyển vốn đầu tư sang các quốc gia khác đã được thực hiện. Có thể nói kinh
tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các nền kinh tế càng trở nên bền chặt và
sâu sắc, sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia do đó
cũng ngày càng tăng. Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đa
thiệu sản phẩm các trung tâm còn làm nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin
thương mại, thiết lập quan hệ với các tổ chức xúc tiến thương mại Hàn Quốc,
hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội chợ triển lãm được tổ chức tại Hàn
Quốc. Doanh nghiệp nào có năng lực có thể cử người sang làm thay mặt như là
hình thức chính phủ và doanh nghiệp cùng tham gia. Trong năm đầu doanh
nghiệp tham gia sẽ không phải chịu bất kì khoản phí nào, những năm sau có
thể từng bước đóng góp một phần. Hơn lúc nào hết việc, chọn lựa, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu kiên định về chính trị, tư
tưởng, thành thạo về nghiệp vụ, tinh thông về ngoại ngữ và các phương tiện
kinh doanh hiện đại, trong sạch về phẩm chất đạo đức là nhiệm vụ sống còn,
cần được các cấp, các ngành quan tâm thoả đáng.
Về phía các doanh nghiệp cũng phải tăng cường khâu quảng cáo tiếp thị
để có thể trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình. Ngày nay cùng với sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và sự phát triển mạnh mẽ của mạng may tính toàn cầu
việc trao đổi thông tin được thực hiện hết sức nhanh chóng và hiệu quả. Đây là
cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá sản phẩm của mình tới thị
trường Hàn Quốc. Với một khoản phí không nhiều các doanh nghiệp Việt Nam
có thể tự xây dựng những trang Web giới thiệu đầy đủ thông tin về công ty, về
sản phẩm của mình. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tận
dụng vai trò của cơ quan Thương vụ Việt Nam ở Hàn Quốc. Đây là biện pháp
mà hiện nay được rất ít doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong khi các doanh
nghiệp Hàn Quốc đã tích cực triệt để tiến hành. Theo tham tán thương mại của
Việt Nam tại Hàn Quốc mỗi ngày có tới 4 - 5 doanh nghiệp Hàn Quốc điện
thoại và fax tới Thương vụ hỏi mua hàng Việt Nam và theo hướng dẫn của
Thương vụ nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đã trực tiếp sang Việt Nam tìm đối
tác. Trong khi đó Thương vụ nhận được rất ít yêu cầu hay chào hàng của các
công ty Việt Nam nên việc giới thiệu của Thương vụ chưa thật sự đạt hiệu quả
mong muốn. Vẫn biết khả năng hạn hẹp về tài chính ít nhiều chi phối tới côngKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
78
tác tiếp thị của các doanh nghiệp xuất khẩu song cũng cần nhìn nhận thực
tế rằng không ít doanh nghiệp làm ăn còn mang tính thời vụ nên bị động và
chưa có biện pháp thích hợp để đeo bám, duy trì thị trường xuất khẩu. Ngoài ra
khi liên hệ với các nhà nhập khẩu Hàn Quốc doanh nghiệp Việt Nam nên gửi
catalogue, brochure, hàng mẫu và bảng giá để giới thiệu về công ty mình. Khi
đã có mối liên hệ bằng việc trao đổi những thông tin cần thiết ban đầu, doanh
nghiệp Việt Nam nên sang Hàn Quốc và mang theo hàng mẫu cũng như thông
tin cụ thể hơn như bảng giá chào xác định, số lượng có thể giao để thoả thuận
hợp đồng.
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đây thực sự là nguồn lực
bổ sung hiệu quả cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là
cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước đầu tư trong
đó có Hàn Quốc. Mặc dù môi trường đầu tư ở Việt Nam trong mấy năm gần
đây đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập gây
trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hàn Quốc
nói riêng. Hiện nay chỉ số thu hút FDI của Việt Nam vẫn rất khiêm tốn, xếp
thứ 71/140 nước (so với 10 năm trước đây là 115/140 nước). Do đó để tăng
cường quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới Việt Nam cần
thực hiện một số giải pháp sau:
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm dẻo
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm
bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
79
như các sản phẩm; tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn
hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn
định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của
FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu
được tại một thị trường xác định. Dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào
một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng
thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ
chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu
cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi
suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì
sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với mức lãi
suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng
giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với
vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm
yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ
mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước
hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong
điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước và vào những nơi mà
chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan
trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức
ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án có tỷ lệ vốn nước ngoài cao,
quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên
vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa
hoá" sản phẩm và công nghệ cao hơn.Kho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
80
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp
dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so
với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các
thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng
vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu
quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn
nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ đầu
tư nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện
khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ,
của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương
như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất
là FDI tư nhân chảy vào, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các
rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ
vào nhiều và ổn định. Ngược lại tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí
bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số
tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất
khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù có những ưu đãi tài
chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn các nhà đầu tư Hàn Quốc vốn
năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn
thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới.
3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa
phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có
thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải
đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
81
vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống
thông tin liên lạc viễn thông hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ
tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ
thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các
dịch vụ hải quan, tài chính, quảng cáo, kỹ thuật...) phát triển rộng khắp và có
chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu
tư nước ngoài thuận tiện trong kinh doanh, giảm chi phí vận chuyển từ đó làm
tăng hiệu quả đầu tư. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI,
chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng FDI
đổ vào Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực
này, cụ thể là việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ
càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn nữa.
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng
sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để chúng ta có thể và có
khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông
qua thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục
vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai).
3.3 Cải cách thủ tục hành chính
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính
rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu
tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh của môi trường
đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công
không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử
dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn
nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính, những
quy định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán đượcKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
82
thực hiện bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và
có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Để có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các
tiêu chí trên, trước hết chính phủ Việt Nam cần coi thu hút đầu tư nước ngoài
trong giai đoạn 2000 - 2010 là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp
dẫn đặc biệt về cạnh tranh với các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia...vốn là những thị trường đầu tư truyền thống của Hàn
Quốc nhằm thu hút lượng vốn FDI trước khi Việt Nam trở thành thành viên
WTO, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các
chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách
một giá, miễn giảm tiền thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt.
Không nên quy định thời gian tồn tại của dự án. Không vì sự vi phạm của một
vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt chặt thêm các quy định luật
lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu tư khác.
Mặt khác cần xây dựng quy hoạch tổng thể đầu tư ở Việt Nam. Nên
chăng chính phủ nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và
ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn
chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô
dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn
cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp
và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để
tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và
thiệt hại cho nhà đầu tư. Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa
đến các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam vì theo kinh nghiệm các nhà
đầu tư mới trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến
nhận xét của lãnh đạo các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Họ coi
đánh giá, nhận xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
83
quyết định cuối cùng. Vì vậy, chính phủ cần quan tâm giải quyết những vướng
mắc, khó khăn và cùng các doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản. Cụ thể
như hiện nay các nhà đầu tư, nhà quản lý nước ngoài chỉ được cấp visa có thời
hạn 6 tháng (được gia hạn khi hết hạn). Theo họ thời hạn này là quá ngắn trong
khi đó việc xin gia hạn lại là cả một vấn đề, gây nhiều khó khăn cho hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam. Do đó chính phủ nên quan tâm nghiên cứu kéo dài
thời hạn này, có thể là 1 năm để các nhà đầu tư yên tâm hợp tác đầu tư tại Việt
Nam.
3.4. Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện liên
doanh, liên kết có hiệu quả
Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là một trong những điều kiện hàng đầu
để một nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các nhân
lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh
nghiệp tài ba cùng với sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước
sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án
của họ. ở Việt Nam lao động giản đơn dư thừa quá nhiều, trong khi đó lại thiếu
các chuyên viên có trình độ kỹ thuật, quản lý cao. Do cung không đủ cầu nên
tiền lương trả rất cao làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Trong khi đó,
Hàn Quốc nổi tiếng là nước có lực lượng lao động quy củ vào bậc nhất thế
giới. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt
đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Hàn Quốc.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công
nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước
ngoài là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn
luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những
doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành
thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc
tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1
I. Quan hệ kinh tế quốc tế 1
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế 1
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế 2
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế 3
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế 9
IV. Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế 11
1. Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế 11
1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế 11
1.2 Những quan điểm chỉ đạo 12
1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010 13
2. Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và
trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng
15
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
Quốc giai đoạn 1992 – 2003
18
I. Khái quát chung 18
II. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc 20
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc 20
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
3
2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc 26
2.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc 26
2.1 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc 29
III. Quan hệ đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc 32
1. Khái quát chung 32
2. Lĩnh vực đầu tư 36
3. Địa bàn đầu tư 37
4. Hình thức đầu tư 40
IV. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác 44
1. Viện trợ không hoàn lại 44
2. Tín dụng ưu đãi 47
3. Xuất khẩu lao động 48
V. Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc 51
1. Đánh giá tổng quát 51
1.1 Về phía Việt Nam 51
1.2 Về phía Hàn Quốc 53
2. Những điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn
Quốc
54
3. Những hạn chế, khó khăn và một số vấn đề cấp bách đặt ra cho
quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
56
Chương III. Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc
60Kho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
4
I. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
Quốc trong thời gian tới
60
II. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc 63
1. Giải pháp về môi trường, thể chế 63
2. Giải pháp cho quan hệ thương mại 65
2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam 65
2.2 Xây dựng cách bán hàng hiệu quả 67
2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại 68
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư 71
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm
dẻo
71
3.2 Phát triển cơ sở hạ tầng 73
3.3 Cải cách thủ tục hành chính 74
3.4 Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện
liên doanh, liên kết có hiệu quả
75
4. Giải pháp cho quan hệ xuất khẩu lao động 76
4.1 Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách 77
4.2 Chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu 77
4.3 Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu 78
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
5
CHƯƠNG I:
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH QUAN HỆ KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
Ngay từ lúc mới xuất hiện, con người đã luôn có nhu cầu trao đổi với
nhau để tồn tại. Khi xã hội loài người phát triển lên những cấp độ cao hơn,
cùng với sự ra đời của bộ tộc, làng xã, nhà nước, nhu cầu trao đổi đó càng
được mở rộng. Sự trao đổi không chỉ dừng lại giữa cá nhân này với cá nhân
khác mà đã phát triển thành mối quan hệ tuỳ từng trường hợp và tác động qua lại lẫn
nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Trong nền kinh tế thế giới hiện
nay, mối quan hệ đó chính là quan hệ kinh tế quốc tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế được hiểu là tổng thể các mối quan hệ vật chất,
tài chính có liên quan đến tất các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra
giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ
yếu bao gồm:
Quan hệ kinh tế quốc tế về trao đổi hàng hoá (hay còn gọi là mậu dịch
quốc tế): là một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu, trong đó diễn ra
việc di chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác. Di chuyển hàng hoá
quốc tế được thực hiện thông qua hình thức buôn bán quốc tế. Trên thị trường
thế giới, người ta thường chia hàng hoá trao đổi giữa các nước thành hai nhóm:
hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển vốn đầu tư (hay còn gọi là đầu tư
quốc tế): Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển các phương tiện đầu tư từKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
6
nước này sang nước khác nhằm thu lợi nhuận. Đầu tư quốc tế thực chất là di
chuyển các yếu tố sản xuất trên qui mô toàn thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển sức lao động: là quan hệ kinh tế
quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển sức lao động từ nước này sang nước
khác trên phạm vi thế giới. Di chuyển quốc tế sức lao động được coi như di
chuyển hàng hoá quốc tế, nhưng đó là loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức
lao động, trên thị trường đặc biệt - thị trường sức lao động. Loại quan hệ kinh
tế quốc tế này dẫn đến việc di dân trên phạm vi thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ: Trong điều
kiện hiện nay hình thức này được thể hiện phổ biến dưới dạng chuyển giao
công nghệ: buôn bán Licence, Know - how, Engineering…
Quan hệ tiền tệ quốc tế: là một loại quan hệ kinh tế quốc tế trong đó
diễn ra sự di chuyển các phương tiện tiền tệ từ nước này sang nước khác trên
qui mô quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các quan hệ buôn bán, đầu tư.
Tiền tệ với chức năng tiền tệ thế giới làm trung gian cho các quan hệ hàng hoá,
di chuyển vốn cũng như các quan hệ khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan
hệ này.
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hệ thống kinh tế thế giới, mỗi quốc gia không thể tồn tại và phát
triển mà không có mối quan hệ trao đổi với quốc gia khác. Điều này càng có ý
nghĩa trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
và trở thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia. Do đó quan hệ kinh tế quốc tế
luôn giữ một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi nước.
Quan hệ kinh tế quốc tế được xem như một biện pháp nhằm bổ sung
nguồn lực cho phát triển kinh tế của các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
7
ngoại sẽ giúp các quốc gia tiếp thu vốn và công nghệ tiên tiến để thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng năng động, tăng trưởng với tốc độ cao. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với các quốc gia đang phát triển khi mà nền kinh tế còn nghèo, trình độ phát
triển còn thấp. Vốn và công nghệ hiện đại giúp các quốc gia này nâng cao trình
độ sản xuất trong nước, góp phần rút ngắn cách biệt về kinh tế với các nền
kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, thị trường nội địa của một nước thường chật hẹp, không đủ
để đảm bảo phát triển nền công nghệ với quy mô sản xuất hàng loạt. Điều này
cho thấy chỉ có mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại mới khắc phục được hạn
chế trên. Tăng cường quan hệ với các nước giúp mở rộng thị trường tiêu thụ,
góp phần tăng thu ngoại tệ đồng thời thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Hơn nữa, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại còn giúp khai thác triệt
để các thế mạnh của mỗi nước, nâng cao đời sống người dân, tạo điều kiện
củng cố hoà bình, ổn định.
Riêng đối với các nước công nghiệp phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại tạo thuận lợi cho việc bành trướng nhanh chóng sức mạnh kinh tế
của các nước như: tìm kiếm thị trường mới để giải quyết khủng hoảng thừa của
hàng hoá; tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi hơn, đem lại lợi nhuận cao hơn; giảm
được chi phí sản xuất do tận dụng được nguồn lao động và tài nguyên rẻ ở các
nước đang và kém phát triển.
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế là bộ phận cốt lõi tạo nên tính hữu cơ của nền
kinh tế thế giới, nhờ đó mà các nền kinh tế quốc gia có thể liên kết với nhau
thành một thể thống nhất. Do đó, quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc
tế chính là sự phản ánh quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới mà ở đóKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
8
nền kinh tế của các quốc gia phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì
vậy mà ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thế giới, các quan
hệ kinh tế quốc tế cũng có những điểm khác biệt nhất định.
1. Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế thế giới đang ở thời kì Chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh, phân công lao động quốc tế từ chỗ sử dụng những khác biệt
về điều kiện tự nhiên đã phát triển thành phân công lao động quốc tế tư bản
chủ nghĩa được thực hiện thông qua buôn bán quốc tế. Sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất ở một số nước dẫn tới nhu cầu mở rộng thị
trường và nơi tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận. Đồng thời, phân công lao
động quốc tế tư bản chủ nghĩa làm tăng nhanh sự phát triển không đồng đều
của chủ nghĩa tư bản, làm sâu sắc thêm sự cách biệt trình độ phát triển kinh tế
giữa một nhóm nhỏ các nước công nghiệp phát triển với phần còn lại của thế
giới. Do đó, quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này thường chỉ diễn ra
giữa một số nước tư bản.
2. Giai đoạn phát triển thứ hai, bắt đầu từ cuối thế kỉ 19, nền kinh tế thế giới
chuyển sang thời kì Chủ nghĩa đế quốc. Phân công lao động quốc tế thời kỳ
này được biểu hiện trước hết bằng sự thống trị thị trường trong và ngoài nước
của các liên minh độc quyền phát triển nhất trên thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế
trong giai đoạn này do đó là sự liên minh giữa các nhà tư bản dựa trên sự phân
chia thế giới về mặt kinh tế, là liên minh chính trị giữa các nhà nước với nhau
dựa trên việc phân chia lãnh thổ thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng song
song tồn tại mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa. Các quan hệ thực dân
này đã khiến cho các cường quốc công nghiệp phát triển liên hệ chặt chẽ với
lãnh thổ hải ngoại rộng lớn mà ở đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
9
còn rất thấp và quan hệ sản xuất này còn mang tính chất của cách sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Do đó, nét nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời kì này là xuất
khẩu tư bản từ chính quốc vào thuộc địa. Trong các nước tư bản công nghiệp
phát triển, quá trình tập trung sản xuất vào tay các tổ chức độc quyền diễn ra
mạnh mẽ, gắn liền với việc tăng nhanh tích luỹ tư bản và năng suất lao động.
Sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Ngược lại, ở một số nước thuộc
địa và phụ thuộc lại diễn ra quá trình lạc hậu và ngừng trệ về trình độ phát
triển kinh tế. Đây chính là hình thức đặc trưng của mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, mâu thuẫn giữa các cường
quốc trong việc chạy đua theo lợi nhuận tối đa và cạnh tranh giành sự thống trị
thị trường thế giới ngày càng gay gắt.
3. Giai đoạn thứ ba của nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng sự thắng lợi
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười và sự xuất hiện một nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự thắng lợi này và sự hình thành
của nhà nước công nông tách khỏi hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa dẫn đến
sự phá vỡ nền kinh tế thế giới chủ nghĩa tư bản thống nhất. Trên thế giới, bên
cạnh hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã tồn tại loại hình kinh tế - xã
hội xã hội chủ nghĩa, trong đó nền kinh tế - xã hội phát triển theo những quy
luật hoàn toàn khác với quy luật của chủ nghĩa tư bản.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh quan hệ giữa các nước trong hệ
thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện quan hệ giữa một bên là
Liên Xô với bên kia là thế giới tư bản với quy mô hạn chế. Các quan hệ này
chủ yếu là quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể bình đẳng của nền kinh
tế thế giới. Giai đoạn phát triển này của nền kinh tế thế giới kéo dài đến sau
đại chiến thế giới lần thứ II, khi mà trên thế giới ngoài Liên Xô còn xuất hiệnKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
10
hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Âu và châu Á hình thành nên
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và nền kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi kinh tế thế giới tồn tại hai hệ thống đối lập: xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa. Mỗi hệ thống kinh tế đều phát triển theo những quy luật
riêng của mình và cơ cấu kinh tế xã hội bên trong của nó hoàn toàn khác nhau.
Song, đồng thời giữa hai hệ thống còn tồn tại những quan hệ lẫn nhau và cả hai
hệ thống đều tham gia vào phân công lao động quốc tế quốc tế và buôn bán
quốc tế như những bạn hàng bình đẳng.
Các quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này phát triển hết sức phức
tạp. Mỗi hệ thống kinh tế đều có kiểu quan hệ riêng của mình, về bản chất nó
được xác lập trên những nguyên tắc hoàn toàn đối lập nhau. Trong hệ thống
kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc
dần dần được xoá bỏ và đã hình thành các nước mới độc lập - các nước đang
phát triển. Mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa chuyển thành mâu thuẫn
giữa các nước tư bản công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Đồng
thời những mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nước đế quốc chủ nghĩa cũng ngày
càng thêm gay gắt và triền miên. Tất cả những điều đó đã đẩy chủ nghĩa tư bản
vào cuộc tổng khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Bên cạnh đó địa vị kinh tế của
các nước đang phát triển ngày càng được củng cố và sự phát triển của nó có
ảnh hưởng không những đến sự tồn tại của hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa
mà còn ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế nói chung. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế ở giai đoạn này, mâu thuẫn cơ bản cũng là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh kinh tế giữa hai
hệ thống.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
11
4. Giai đoạn hiện đại của nền kinh tế thế giới là giai đoạn mà ở đó các nhóm
nước trong nền kinh tế thế giới được hình thành chủ yếu dựa vào trình độ phát
triển kinh tế và khu vực địa lý. Một thế giới đa cực đang hình thành.
Sau khi Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa châu Âu tan rã, các
cường quốc phương Tây trở thành những thế lực chủ yếu chi phối cục diện
kinh tế - chính trị thế giới. Tỷ trọng các nước đang phát triển trong sản xuất
công nghiệp thế giới chỉ chiếm một phần nhỏ, 2/3 quan hệ buôn bán quốc tế
của các nước đang phát triển gắn với các nước phát triển, chỉ 1/3 còn lại là các
nước phát triển với nhau; 95% vốn đầu tư nước ngoài xuất phát từ các nước
phát triển, trong số đó chỉ có 1/4 đi vào các nước đang phát triển phần còn lại
tập trung chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển.
Hoà nhập vào nền kinh tế thế giới trong thế so sánh lực lượng không có
lợi, các nước đang phát triển luôn tìm cách vươn lên để hạn chế thiệt thòi của
kẻ yếu. Nhiều nước Đông Á đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có những chính sách,
những biện pháp thích hợp nhờ đó đã duy trì được nhịp tăng trưởng đáng kể.
Do nhịp độ tăng trưởng của các nước đang phát triển nói chung nhích
lên trong khi nhịp độ tăng trưởng ở các nước phát triển hầu như dậm chân tại
chỗ, các nước phát triển có xu hướng bám chặt hơn, thậm chí tăng cường các
biện pháp o ép đối với các nước đang phát triển để giữ vững lợi thế so sánh
của mình trong quan hệ hợp tác. Đồng thời cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các
nước đang phát triển gay gắt lên thêm.
Từ tình hình trên, xu hướng khu vực hoá trong các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển có thể nhằm tăng cường lợi thế của mỗi nhóm
nước trong hợp tác với các nước ngoài khu vực và thực tế cho thấy quá trình
này đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao
trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, tổ chứcKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
12
sản xuất, nghiên cứu khoa học công nghệ cũng như các lĩnh vực giáo dục đào
tạo, văn hoá, lối sống… Hiện nay trên thế giới đã hình thành nhiều liên kết khu
vực như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Nhóm các nước phát triển (G7), Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…Tuy
nhiên do xu hướng, xu thế chung của khu vực hoá sẽ không thể sống nếu tách
rời hay đi ngược lại với toàn cầu hoá trong hợp tác kinh tế. Điều đó là do các
vấn đề toàn cầu hoá ngày càng trở nên gay gắt như vấn chiến tranh và hoà
bình, đề lương thực, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề dân số…trong đó nổi
cộm nhất hiện nay là vấn đề chống khủng bố trên toàn thế giới. Vụ khủng bố
kinh hoàng diễn ra trên đất Mỹ ngày 11/9/2001 mới đây là một minh chứng
điển hình cho tính tất yếu của hợp tác toàn cầu.
Giữa các nước đang phát triển với nhau, một mặt có nhu cầu liên kết tự
nhiên giữa những người đồng cảnh, mặt khác do nhu về vốn ngày càng tăng
trong khi tỷ trọng FDI vào các nước này không tăng hay ngày càng giảm, sự
cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư ngày càng gay gắt hơn. Các nguồn viện trợ và
cho vay dành cho các nước đang phát triển nói chung ngày càng giảm, trừ một
số ít nước có khả năng trả nợ tin cậy.
Các dự báo trên thế giới gần như thống nhất rằng trong nửa đầu thế kỉ
21, châu Á - Thái Bình Dương với tiềm năng phong phú, chức năng độc lập,
nhịp độ tăng trưởng thần kì và bước đi tương đối vững chắc sẽ trở thành trung
tâm kinh tế thế giới, thậm chí có dự báo cho rằng trung tâm kinh tế thế giới
chuyển từ châu Âu sang châu Á trong đó nổi lên là Đông Á - Tây Thái Bình
Dương.
Do qui luật cạnh tranh và thời gian đã trở nên thúc bách các cường quốc
kinh tế cả trong và ngoài khu vực đều phải tính đến việc cầm chân và phát
triển ảnh hưởng ở khu vực này. Gần đây đã xuất hiện nhiều động thái cho thấy
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
13
sự bắt đầu quan tâm (hay quan tâm nhiều hơn) của các nước lớn đối với khu
vực này, không những từ Nhật, Trung Quốc mà còn cả từ một số nước Tây Âu
và Mỹ, cụ thể là việc thành lập khối liên kết ASEAN + 3 gồm Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn quốc và khối liên kết ASEAN + 1 với riêng từng nước. Mục
tiêu của họ không chỉ đơn thuần là đi tìm lợi nhuận cao, hay vì yêu cầu nhân
đạo giao lưu văn hoá, mà còn nhằm cân bằng và giành giật ảnh hưởng với
nhau, tiến tới đưa khu vực này đi theo quỹ đạo của họ.
Có thể nói quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra
hết sức phức tạp, sâu sắc và rộng khắp. Trong quan hệ đó, có sự tham gia của
mọi quốc gia, mọi thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Khu vực hoá, toàn cầu hoá do đó là xu thế đặc trưng của quan hệ
kinh tế quốc tế thời kì này. Các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tăng
cường sự phụ thuộc lẫn nhau và đang dần từng bước tạo nên một nền kinh tế
thế giới thống nhất.
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế
Tiền đề cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế là phân công lao động quốc
tế. Trong giai đoạn đầu, những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế đơn giản nhất
xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của từng nước. Sự khác nhau
về tài nguyên thiên nhiên, về khoáng sản, khí hậu…đã trở thành tiền đề tự
nhiên của phân công lao động quốc tế, là cơ sở đầu tiên cho việc trao đổi hàng
hoá giữa các ngành và các quốc gia.
Trong những thời kì sau, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật,
phân công lao động quốc tế ngày càng được mở rộng. Ý nghĩa của điều kiện tự
nhiên như một yếu tố nguyên thuỷ của phân công lao động quốc tế đã bị giảm
một cách tương đối và ý nghĩa của phân công lao động trong nội bộ ngành
được nâng cao. Chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế do đó ngày càng trở nênKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
14
sâu sắc, mậu dịch quốc tế càng phát triển nhanh chóng. Giữa các quốc gia
trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng cường mối quan hệ trao đổi và phụ
thuộc lẫn nhau. Nền sản xuất vật chất đã vượt qua khuôn khổ của các nước
riêng lẻ và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng tỉ mỉ,
sâu sắc và chặt chẽ hơn. Phân công lao động quốc tế giờ đây không chỉ dừng
lại ở việc trao đổi hàng hoá mà được mở rộng trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học kỹ thuật; trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đời sống kinh tế và là
một tất yếu khách quan của thời đại. Việc áp dụng những thành tựu khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất để mở rộng thị trường
thế giới và tăng nhanh các quan hệ kinh tế quốc tế. Có thể nói phân công lao
động quốc tế luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của các mối quan hệ kinh
tế quốc tế.
Cùng với phân công lao động quốc tế, lợi thế so sánh cũng là một cơ sở
quan trọng của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong thời kì đầu, lợi thế so sánh
chính là sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất bao gồm vốn,
lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu… của quốc gia này so với quốc gia khác.
Chính sự ưu đãi này đã khiến cho các nước có chi phí cơ hội thấp hơn trong
việc sản xuất một số sản phẩm hàng hoá nhất định và sẽ thu được lợi khi đem
xuất khẩu hàng hoá đó để đổi lấy sản phẩm hàng hoá cần nhiều chi phí hơn.
Nhu cầu trao đổi, buôn bán do đó cũng xuất hiện. Lợi thế so sánh đã đem lại
lợi ích cho tất cả các quốc gia khi tham gia vào phân công lao động quốc tế,
thúc đẩy sự tích cực tham gia của các nền kinh tế vào các hoạt động quan hệ
kinh tế quốc tế.
Trong những giai đoạn sau, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
công nghệ dần trở thành một yếu tố đầu vào mang tính chất quyết định đối với
sự phát triển sản xuất của mỗi quốc gia. Lợi thế so sánh do đó cũng được mở
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
15
rộng, bao gồm cả công nghệ, dây chuyền sản xuất. Những quốc gia có trình độ
khoa học công nghệ hiện đại sẽ giảm được chi phí sản xuất, tăng chất lượng và
sản lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quan hệ
buôn bán, trao đổi với các quốc gia khác. Lợi thế so sánh thật sự đã trở thành
cơ sở để các nước tham gia vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế khi đem lại lợi
ích thương mại cho các quốc gia đó.
Bên cạnh đó, sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế cũng gắn liền với
sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Khi các nền kinh tế còn ở trình độ phát
triển thấp, quan hệ giữa các nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi hiện vật, đổi
hàng lấy hàng. Chính sự phát triển về khoa học công nghệ, sự phát triển và
hoàn thiện các phương tiện giao thông vận tải, liên lạc đã làm cho các bộ phận
của nền kinh tế thế giới ngày càng xích lại gần nhau và mở rộng không ngừng
các quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực trên thế giới. Các quan hệ kinh
tế quốc tế bây giờ không chỉ đơn thuần bao gồm việc trao đổi hàng hoá mà còn
được mở rộng sang nhiều hoạt động khác. Sự xuất hiện và phát triển không
ngừng của khoa học, công nghệ đã dẫn đến nhu cầu chuyển giao những công
nghệ cũ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển vốn rất thiếu dây
chuyền công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất trong nước. Cũng nhờ sự
phát triển kinh tế, dẫn đến dư thừa vốn ở một số nước phát triển, hoạt động di
chuyển vốn đầu tư sang các quốc gia khác đã được thực hiện. Có thể nói kinh
tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các nền kinh tế càng trở nên bền chặt và
sâu sắc, sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia do đó
cũng ngày càng tăng. Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đa
thiệu sản phẩm các trung tâm còn làm nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin
thương mại, thiết lập quan hệ với các tổ chức xúc tiến thương mại Hàn Quốc,
hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội chợ triển lãm được tổ chức tại Hàn
Quốc. Doanh nghiệp nào có năng lực có thể cử người sang làm thay mặt như là
hình thức chính phủ và doanh nghiệp cùng tham gia. Trong năm đầu doanh
nghiệp tham gia sẽ không phải chịu bất kì khoản phí nào, những năm sau có
thể từng bước đóng góp một phần. Hơn lúc nào hết việc, chọn lựa, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu kiên định về chính trị, tư
tưởng, thành thạo về nghiệp vụ, tinh thông về ngoại ngữ và các phương tiện
kinh doanh hiện đại, trong sạch về phẩm chất đạo đức là nhiệm vụ sống còn,
cần được các cấp, các ngành quan tâm thoả đáng.
Về phía các doanh nghiệp cũng phải tăng cường khâu quảng cáo tiếp thị
để có thể trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình. Ngày nay cùng với sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và sự phát triển mạnh mẽ của mạng may tính toàn cầu
việc trao đổi thông tin được thực hiện hết sức nhanh chóng và hiệu quả. Đây là
cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá sản phẩm của mình tới thị
trường Hàn Quốc. Với một khoản phí không nhiều các doanh nghiệp Việt Nam
có thể tự xây dựng những trang Web giới thiệu đầy đủ thông tin về công ty, về
sản phẩm của mình. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tận
dụng vai trò của cơ quan Thương vụ Việt Nam ở Hàn Quốc. Đây là biện pháp
mà hiện nay được rất ít doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong khi các doanh
nghiệp Hàn Quốc đã tích cực triệt để tiến hành. Theo tham tán thương mại của
Việt Nam tại Hàn Quốc mỗi ngày có tới 4 - 5 doanh nghiệp Hàn Quốc điện
thoại và fax tới Thương vụ hỏi mua hàng Việt Nam và theo hướng dẫn của
Thương vụ nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đã trực tiếp sang Việt Nam tìm đối
tác. Trong khi đó Thương vụ nhận được rất ít yêu cầu hay chào hàng của các
công ty Việt Nam nên việc giới thiệu của Thương vụ chưa thật sự đạt hiệu quả
mong muốn. Vẫn biết khả năng hạn hẹp về tài chính ít nhiều chi phối tới côngKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
78
tác tiếp thị của các doanh nghiệp xuất khẩu song cũng cần nhìn nhận thực
tế rằng không ít doanh nghiệp làm ăn còn mang tính thời vụ nên bị động và
chưa có biện pháp thích hợp để đeo bám, duy trì thị trường xuất khẩu. Ngoài ra
khi liên hệ với các nhà nhập khẩu Hàn Quốc doanh nghiệp Việt Nam nên gửi
catalogue, brochure, hàng mẫu và bảng giá để giới thiệu về công ty mình. Khi
đã có mối liên hệ bằng việc trao đổi những thông tin cần thiết ban đầu, doanh
nghiệp Việt Nam nên sang Hàn Quốc và mang theo hàng mẫu cũng như thông
tin cụ thể hơn như bảng giá chào xác định, số lượng có thể giao để thoả thuận
hợp đồng.
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đây thực sự là nguồn lực
bổ sung hiệu quả cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là
cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước đầu tư trong
đó có Hàn Quốc. Mặc dù môi trường đầu tư ở Việt Nam trong mấy năm gần
đây đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập gây
trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hàn Quốc
nói riêng. Hiện nay chỉ số thu hút FDI của Việt Nam vẫn rất khiêm tốn, xếp
thứ 71/140 nước (so với 10 năm trước đây là 115/140 nước). Do đó để tăng
cường quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới Việt Nam cần
thực hiện một số giải pháp sau:
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm dẻo
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm
bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
79
như các sản phẩm; tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn
hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn
định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của
FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu
được tại một thị trường xác định. Dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào
một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng
thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ
chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu
cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi
suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì
sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với mức lãi
suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng
giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với
vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm
yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ
mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước
hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong
điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước và vào những nơi mà
chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan
trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức
ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án có tỷ lệ vốn nước ngoài cao,
quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên
vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa
hoá" sản phẩm và công nghệ cao hơn.Kho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
80
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp
dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so
với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các
thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng
vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu
quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn
nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ đầu
tư nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện
khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ,
của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương
như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất
là FDI tư nhân chảy vào, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các
rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ
vào nhiều và ổn định. Ngược lại tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí
bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số
tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất
khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù có những ưu đãi tài
chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn các nhà đầu tư Hàn Quốc vốn
năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn
thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới.
3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa
phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có
thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải
đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
81
vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống
thông tin liên lạc viễn thông hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ
tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ
thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các
dịch vụ hải quan, tài chính, quảng cáo, kỹ thuật...) phát triển rộng khắp và có
chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu
tư nước ngoài thuận tiện trong kinh doanh, giảm chi phí vận chuyển từ đó làm
tăng hiệu quả đầu tư. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI,
chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng FDI
đổ vào Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực
này, cụ thể là việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ
càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn nữa.
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng
sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để chúng ta có thể và có
khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông
qua thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục
vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai).
3.3 Cải cách thủ tục hành chính
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính
rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu
tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh của môi trường
đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công
không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử
dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn
nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính, những
quy định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán đượcKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
82
thực hiện bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và
có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Để có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các
tiêu chí trên, trước hết chính phủ Việt Nam cần coi thu hút đầu tư nước ngoài
trong giai đoạn 2000 - 2010 là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp
dẫn đặc biệt về cạnh tranh với các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia...vốn là những thị trường đầu tư truyền thống của Hàn
Quốc nhằm thu hút lượng vốn FDI trước khi Việt Nam trở thành thành viên
WTO, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các
chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách
một giá, miễn giảm tiền thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt.
Không nên quy định thời gian tồn tại của dự án. Không vì sự vi phạm của một
vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt chặt thêm các quy định luật
lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu tư khác.
Mặt khác cần xây dựng quy hoạch tổng thể đầu tư ở Việt Nam. Nên
chăng chính phủ nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và
ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn
chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô
dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn
cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp
và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để
tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và
thiệt hại cho nhà đầu tư. Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa
đến các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam vì theo kinh nghiệm các nhà
đầu tư mới trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến
nhận xét của lãnh đạo các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Họ coi
đánh giá, nhận xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiKho¸ luËn tèt nghiÖp Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
83
quyết định cuối cùng. Vì vậy, chính phủ cần quan tâm giải quyết những vướng
mắc, khó khăn và cùng các doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản. Cụ thể
như hiện nay các nhà đầu tư, nhà quản lý nước ngoài chỉ được cấp visa có thời
hạn 6 tháng (được gia hạn khi hết hạn). Theo họ thời hạn này là quá ngắn trong
khi đó việc xin gia hạn lại là cả một vấn đề, gây nhiều khó khăn cho hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam. Do đó chính phủ nên quan tâm nghiên cứu kéo dài
thời hạn này, có thể là 1 năm để các nhà đầu tư yên tâm hợp tác đầu tư tại Việt
Nam.
3.4. Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện liên
doanh, liên kết có hiệu quả
Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là một trong những điều kiện hàng đầu
để một nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các nhân
lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh
nghiệp tài ba cùng với sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước
sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án
của họ. ở Việt Nam lao động giản đơn dư thừa quá nhiều, trong khi đó lại thiếu
các chuyên viên có trình độ kỹ thuật, quản lý cao. Do cung không đủ cầu nên
tiền lương trả rất cao làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Trong khi đó,
Hàn Quốc nổi tiếng là nước có lực lượng lao động quy củ vào bậc nhất thế
giới. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt
đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Hàn Quốc.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công
nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước
ngoài là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn
luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những
doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành
thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: