Download miễn phí Khóa luận Quan hệ thương mại Việt Nam-Indonesia: thực trạng và các giải pháp phát triển
Đối với các mặt hàng là lương thực như gạo .Indonesia nhập khẩu chủ yếu để tiêu dùng trong nước. Trước khi khủng hoàng tài chính tiền tệ xảy ra nông nghiệp không phải là ngành được Indonesia coi trọng và đầu tư thích đáng, sự bỏ bễ một lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp trong thời kì phát triển hưng thịnh không gây vấn đề gì lớn cho nền kinh tế vì Indonesia có thể lấy kết quả kinh doanh của những ngành kinh tế khác bù đắp cho nông nghiệp. Thực tế là hàng năm Indonesia vẫn phải nhập khẩu một khối lượng lớn lương thực phục vụ cho nhu cầu của người dân. Khi khủng hoảng nổ ra, thiều hụt lương thực đã làm trầm trọng thêm hậu quả về mặt xã hội của cuộc khủng hoảng do vậy hiện nay Indonesia đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế, dành cho nông nghiệp vị trí xứng đáng hơn. Thực hiện các cải cách trên đồng nghĩa với việc nhu cầu về nhập khẩu lương thực sẽ giảm đi và đây là thách thức với hoạt động xuất khẩu lương thực của Việt Nam sang Indonesia.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-08-khoa_luan_quan_he_thuong_mai_viet_namindonesia_t.etx4AYMP72.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-44393/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
sia vẫn chưa thoát khỏi tình trạng chuyên sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu thô, mà những mặt hàng xuất khẩu chủ lực này có giá cả không ổn định trên thị trường thế giới.Nợ nước ngoài ngày càng tăng là một gánh nặng với nền kinh tế Indonesia. Có thể nhận thấy trong các nước ASEAN, Indonesia là nước có số nợ nước ngoài lớn nhất. Đây chính là khó khăn lớn trong phát triển kinh tế của Indonesia trong thời gian tới. (Bảng 6)
Bảng:6 - Nợ nước ngoài của một số nước ASEAN
1990
1997
2000
Tr. USD
Tr.USD
Tr.USD
% GDP
Campuchia
1'854
2129
2357
74,3
Indonesia
69'872
136'161
141'803
99,4
Lào
1'768
2'320
2'499
149,6
Malaixia
15'328
47'228
41'797
50,7
Myanmar
4.695
5'503
6'046
Phippines
30'580
45'683
50'093
63,1
Singapore
3'772
13'803
16'880
18,1
Thái Lan
28'095
109'699
79'675
66,1
Việt Nam
23'270
21'780
12'787
40,8
Nguồn: Asian Development Bank, Key Indicators of Developing Asian and Pacific Countries 2002
1.2.3.2 Những tồn tại trong xã hội:
Sự phân hoá giàu cùng kiệt đang diễn ra ngày càng gay gắt.
Nạn thất nghiệp gia tăng: đến năm 2000 tỉ lệ thất nghiệp là 6,1% giảm nhẹ so với năm 1999 (6,4%) song nó chưa nói nên được điều gì về hiểu quả của các chính sách việc làm vì tỉ lệ này lớn hơn so vơi tỉ lệ thất nghiệp các năm 1997-1998- các năm của khủng hoảng tài chính.
Tình trạng chính trị xã hội chưa ổn định: đây chính là khó khăn rất lớn và khó khắc phục của Indonesia. Chính trường Indonesia luôn tiềm ẩn những biến động mà những biến động này đều ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế. Mặt khác, bộ máy nhà nước không trong sạch cũng gây không ít khó khăn cho xây dựng kinh tế.
Sự suy giảm về tài nguyên thiên nhiên và tình trạng mất cân bằng sinh thái. Trong qua trình phát triển kinh tế, Indonesia chưa coi trọng đúng mức việc duy trì và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình, đặc biệt là rừng đang cạn kiệt nhanh chóng. Điều này gây nên tình trạng mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng cho toàn bộ khu vực nói chung và Indonesia nói riêng.
Quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng còn gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Trên đây là những vấn đề mà Indonesia cần giải quyết để đạt được sự phát triển bền vững
CHƯƠNG 2
Thực trạng Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Indonesia
2.1 Lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam - Indonesia
2.1.1 Quan hệ ngoại giao VIệt nam - Indonesia từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay
Indonesia và Việt Nam là hai nước có nhiều điểm tương đồng, láng giềng gần gũi. Mối quan hệ giữa hai nước có truyền thống lâu đời do cố chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Tổng thống Sukarno dày công vun đắp và được nhân dân hai nước bảo vệ và phát triển. Việt Nam và Indonesia thiết lập quan hệ ở cấp tổng lãnh sự từ năm 1955, chính thức nâng lên hàng đại sứ - thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức ngày 15-08-1964. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước tuy có trải qua nhiều thăng trầm nhưng nhìn chung tốt đẹp.
Từ năm 1990 cùng với vấn đề Campuchia được giải quyết quan hệ giữa Indonesia và Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng đi lên. Indonesia còn là nước đầu tiên ở Đông Nam á và Nam Thái Bình Dương vượt qua vấn đề về Campuchia, đi đầu trong việc thúc đẩy sự hợp tác của các nước với Việt Nam. Từ mối quan hệ láng giềng hữu nghị, quan hệ hợp tác giữa hai nước được mở rộng trên nhiều lĩnh vực.
Sự kiện quan trọng là vào cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1991, đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam do Thủ tướng Võ Văn Kiệt đứng đầu lần đầu tiên thăm một số nước Đông Nam á trong đó có Indonesia. Chuyến thăm này đã chấm dứt một thời kì đối đầu, mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Tổng thống Suharto đã nói: "con đường hợp tác đang mở rộng trước mặt chúng ta bao gồm tất cả các nước trong khu vực". Xuất phát từ quan điểm đó Indonesia đã tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN, nhằm xây dựng sự ổn định về mặt chính trị, thịnh vượng về kinh tế trong khu vực Đông Nam á.
Kể từ năm 1995, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ Việt Nam - Indonesia ngày càng được củng cố và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, và không chỉ trên cơ sở song phương mà cả đa phương theo tinh thần ASEAN.
Mấy năm qua, quan hệ hai nước không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế thương mại, đầu tư, văn hoá, giáo dục, mà còn mở rộng sang cả quan hệ giữa hai quốc hội, và hai bộ quốc phòng. Hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao thuộc hầu hết các ngành các cấp. Trong 6 tháng đầu năm 1997, hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao thuộc hầu hết các ngành các cấp: đoàn của chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Hoàng Văn Nghiên; đoàn cán bộ cấp cao thuế vụ - bộ Tài chính Việt Nam; đoàn Quân sự cấp cao do đồng chí Phạm Văn Trà, Uỷ viên bộ chính trị, Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam dẫn đầu. Về phía Indonesia có chuyến thăm chính thưc của đoàn Quốc hội Indonesia do ngày H- Wahono- Chủ tịch Quốc hội Indonesia và là chủ tịch liên minh nghị viện ASEAN (AIPO), dẫn đầu; Kết quả của các cuộc viếng thăm chính thức giữa hai bên đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.
2.1.2 Một số chuyến viếng thăm của các nhà đứng đầu chính phủ hai nước góp phần thúc đẩy quan hệ ngoại giao - kinh tế
Trong vài năm trở lại đây hai nước liên tục có những chuyến viếng thăm của những người đứng đầu chính phủ. Điều này cho thấy quan hệ giữa hai nước không ngừng phát triển và rất được hai nhà nước coi trọng, điển hình là các cuộc viếng thăm :
Chuyến thăm của bộ trưởng bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên sang Indonesia ngày 40/05/2000.
Chuyến thăm chính thức của tổng thống Indonesia, bà Megawati Sukarnoputri cùng nhiều quan chức đến Việt Nam ngày 22/08/2001.
Chuyến thăm chính thức Indonesia của Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Trần Đức Lương cùng nhiều quan chức ngày 12/11/2001.
Chuyến thăm chính thức của Thủ Tướng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ông Phan Văn Khải cùng nhiều quan chức chính phủ và các doanh nghiệp sang Indonesia ngày 06/11/2002
Chuyến thăm chính thức của tổng thống Indonesia, bà Megawati Sukarnoputri cùng nhiều quan chức đến Việt Nam ngày 26/06/2003.
Những chuyến thăm đoàn ngoại giao hai nước là bước đi cụ thể trong việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại giữa hai Nhà nước - đó là coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Indonesia. Những chuyến thăm là sự kiện quan trọng đánh dấu quá trình phát triển quan hệ của hai nước trên cả phương diện song phương và đa phương phù hợp với tiềm năng và lợi ích mỗi bên.
2.2 Các văn bản, thoả thuận về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam - Indonesia
Tính đến 1997, hai nước đã kí được 7 hiệp định và 6 bản thoả thuận hợp tác. Đến năm 2002 hai nước đã kí các Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác kinh tế, Hiệp định khuyến khích về bảo hộ đầu tư, Hiệp định về vận tải biển, Hiệp định về hàng không dân dụng, Hiệp định về hợp tác lâm nghiêp, Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần, các hiệp định về bưu điện, Hiệp định văn hoá,...