trinhhoa85
New Member
Link tải miễn phí luận văn
Nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự và kiến nghị
- Bổ sung nguyên tắc cơ bản của BLTTDS nguyên tắc tranh tụng với nội dung: “Toà án bảo đảm cho các đương sự tranh tụng tại phiên toà một cách dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật”
Việc quy định nguyên tắc tranh tụng vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS một mặt khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên toà đồng thời là tư tưởng chỉ đạo, đòi hỏi hoạt động xét xử cuả Toà án phải tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên toà. Coi tranh tụng là hoạt động trung tâm của phiên toà xét xử, kết quả của việc tranh tụng là căn cứ để Toà án đưa ra phán quyết cuối cùng.
- Bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn. Ví dụ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn; trình tự giải quyết theo thủ tục rút gọn; thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn giải quyết các tranh chấp dân sự đang còn là vấn đề mới mẻ trong pháp luật TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, việc quy định thủ tục rút gọn trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, đồng thời đáp ứng được nhu cầu giải quyết số lượng các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Có thể thấy, phiên toà sơ thẩm dân sự là giai đoạn quan trọng nhất trong tố tụng dân sự. Nếu việc xét xử tại phiên toà sơ thẩm dân sự đạt chất lượng tốt sẽ là cơ sở để Toà án ra bản án, quyết định chính xác, khách quan, từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo vệ kịp thời, ý thức pháp luât của người dân được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa được bảo đảm. Để phiên toà sơ thẩm dân sự đạt được kết quả tốt thì không những đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ của những người tiến hành tố tụng mà các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tiến hành phiên toà cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vậy theo pháp luật hiện hành thì phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành theo trình tự và thủ tục như thế nào và các quy định của pháp luật đã cụ thể, chi tiết và đã hợp lý chưa là đề tài chúng ta cần xem xét và hoàn thiện.
B. NỘI DUNG
1, Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự
a, Chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm
Điều 212 BLTTDS quy định về vệc chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm. Việc thực hiện các công việc trong bước này là nhiệm vụ của thư ký toà án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên toà diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra lại xem có trường hợp nào hoãn phiên toà không đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên toà trước khi khai mạc.
b, Bắt đầu phiên toà
Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định từ Điều 213 đến Điều 216. Mục đích của các thủ tục này là nhằm kiểm tra sự có mặt những người tham gia tố tụng theo giấy triệu tập của Toà án và ổn định trật tự phiên toà. Hơn nữa, để đảm bảo cho việc giải quuyết được đúng đắn, xét xử đúng đối tượng, chủ toạ phiên toà kiểm tra căn cước của các đương sự thông qua việc hỏi để đương sự trả lời trực tiếp về họ tên, tuổi, địa chỉ… và đối chiếu lại lời trình bày cảu họ với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hơn nữa, các thủ tục này chủ yếu liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ cho họ giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên toà.
Điều 214 BLTTDS quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định viên, người phiên dịch viên. Thủ tục này đảm bảo cho những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng. người giám định, người phiên dịch…
Bên cạnh đó, đối với những vụ án có người làm chứng tham gia tố tụng, để đảm bảo tính khách quan trong lời khai của người làm chứng, Điều 216 BLTTDS quy định biện pháp cách ly người làm chứng khi lời khai của họ có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của những đương sự và người làm chứng khác.
Như vậy, các quy định về thủ tục bắt đầu phiên toà của BLTTDS rất chi tiết và cụ thể. Với quy định cảu BLTTDS về thủ tục bắt đầu phiên toà thì vai trò của Thẩm phán – chủ toạ phiên toà là rất lớn. Tất cả các hoạt động của Thẩm phán tại thủ tục này nhằm đảm bảo cho việc quản lý vụ án của Toà án được chặt chẽ, đảm bảo cho việc xét xử được đúng đối tượng, đúng thủ tục tố tụng và những người tham gia tố tụng được biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên toà sơ thẩm dân sự.
c, Hỏi tại phiên toà
Theo quy định tại các điều, từ Điều 217 đến Điều 231 BLTTDS thì thủ tục hỏi được tiến hành tuần tự theo các bước: Hỏi để xác định yêu cầu của đương sự và về sự thoả thuận của đương sự; các bên đương sự trình bày về nội dung vụ án và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương sự trình bày chưa được rõ hay có mâu thuẫn, công bố lại các tài liệu của vụ án, xem xét vật chứng.
Điều 217 BLTTDS đã quy định cụ thể những vấn đề mà chủ toạ phiên toà cần hỏi đương sự trước khi hỏi về nội dung vụ án. Ví dụ: chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các yêu cầu thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu… Nội dung của điều luật này căn cứ vào nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết và Toà án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Vì vậy, quy định này của BLTTDS giúp Toà án xác định được phạm vi xét sử tại phiên toà sơ thẩm.
- Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Điều 218 BLTTDS quy định về vấn đề xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự. Điều này đảm bảo quyền lợi của đương sự trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, theo quy định của điều luật này thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự khi mà những thay đổi, bổ sung của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập ban đầu. Quy định này vô tình đã làm hạn chế quyền tự định đoạt của các đương sự. Sự hạn chế này thể hiện ở chỗ việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà nếu theo hướng rút bớt yêu cầu thì được còn theo hướng thăng thêm thì không được.
Cùng với quy định tại Điều 218 BLTTDS, NQ02/2006/NQ – HĐTP có hướng dẫn như sau: “không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu là không vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu” tuy nhiên Nghị quyết lại không giải thích cụ thể cụm từ “phạm vi yêu cầu” là phạm vi qua hệ pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu nên chưa giải quyết được triệt để các vướng mắc liên quan đến điều luật này. Từ đó có thể dẫn đến cách hiểu không vượt quá yêu cầu ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới, không được tăng giá trị yêu cầu…Ví dụ ban đầu A kiện B bồi thường 10 triệu đồng vì đã có hành vi chặt cây làm đổ vào nhà của A, gây thiệt hại một phần căn nhà của A. Nhưng trong quá trình tu sửa khắc phục thiệt hại, do giá cả nguyên vật liệu tăng nên A đã phải chi tiêu cho công việc trên hết 30 triệu đồng. Tại phiên toà, A yêu cầu B bồi thường thêm 20 triệu đồng nữa. Với cách hiểu về quy định tại Điều 218 BLTTDS cũng như hướng dẫn tại NQ02/2006/NQ – HĐTP thì yêu cầu của A sẽ không được chấp nhận vì vi phạm
Điều 219 quy định về việc thay đổi địa vị tố tụng. Quy định này đảm bảo việc giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa các bên đương sự, nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp dân sự một cách nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, BLTTDS lại không quy định về thời điểm thực hiện việc phản tố của bị đơn và đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, tại PTSTDS, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không là một vấn đề chưa được quy định rõ ràng.
- Hỏi về việc tự hoà giải của các đương sự
Điều 220 BL...
Bạn download ở link này nhé
Nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự và kiến nghị
- Bổ sung nguyên tắc cơ bản của BLTTDS nguyên tắc tranh tụng với nội dung: “Toà án bảo đảm cho các đương sự tranh tụng tại phiên toà một cách dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật”
Việc quy định nguyên tắc tranh tụng vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS một mặt khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên toà đồng thời là tư tưởng chỉ đạo, đòi hỏi hoạt động xét xử cuả Toà án phải tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên toà. Coi tranh tụng là hoạt động trung tâm của phiên toà xét xử, kết quả của việc tranh tụng là căn cứ để Toà án đưa ra phán quyết cuối cùng.
- Bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn. Ví dụ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn; trình tự giải quyết theo thủ tục rút gọn; thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn giải quyết các tranh chấp dân sự đang còn là vấn đề mới mẻ trong pháp luật TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, việc quy định thủ tục rút gọn trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, đồng thời đáp ứng được nhu cầu giải quyết số lượng các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Có thể thấy, phiên toà sơ thẩm dân sự là giai đoạn quan trọng nhất trong tố tụng dân sự. Nếu việc xét xử tại phiên toà sơ thẩm dân sự đạt chất lượng tốt sẽ là cơ sở để Toà án ra bản án, quyết định chính xác, khách quan, từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo vệ kịp thời, ý thức pháp luât của người dân được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa được bảo đảm. Để phiên toà sơ thẩm dân sự đạt được kết quả tốt thì không những đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ của những người tiến hành tố tụng mà các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tiến hành phiên toà cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vậy theo pháp luật hiện hành thì phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành theo trình tự và thủ tục như thế nào và các quy định của pháp luật đã cụ thể, chi tiết và đã hợp lý chưa là đề tài chúng ta cần xem xét và hoàn thiện.
B. NỘI DUNG
1, Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự
a, Chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm
Điều 212 BLTTDS quy định về vệc chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm. Việc thực hiện các công việc trong bước này là nhiệm vụ của thư ký toà án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên toà diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra lại xem có trường hợp nào hoãn phiên toà không đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên toà trước khi khai mạc.
b, Bắt đầu phiên toà
Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định từ Điều 213 đến Điều 216. Mục đích của các thủ tục này là nhằm kiểm tra sự có mặt những người tham gia tố tụng theo giấy triệu tập của Toà án và ổn định trật tự phiên toà. Hơn nữa, để đảm bảo cho việc giải quuyết được đúng đắn, xét xử đúng đối tượng, chủ toạ phiên toà kiểm tra căn cước của các đương sự thông qua việc hỏi để đương sự trả lời trực tiếp về họ tên, tuổi, địa chỉ… và đối chiếu lại lời trình bày cảu họ với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hơn nữa, các thủ tục này chủ yếu liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ cho họ giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên toà.
Điều 214 BLTTDS quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định viên, người phiên dịch viên. Thủ tục này đảm bảo cho những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng. người giám định, người phiên dịch…
Bên cạnh đó, đối với những vụ án có người làm chứng tham gia tố tụng, để đảm bảo tính khách quan trong lời khai của người làm chứng, Điều 216 BLTTDS quy định biện pháp cách ly người làm chứng khi lời khai của họ có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của những đương sự và người làm chứng khác.
Như vậy, các quy định về thủ tục bắt đầu phiên toà của BLTTDS rất chi tiết và cụ thể. Với quy định cảu BLTTDS về thủ tục bắt đầu phiên toà thì vai trò của Thẩm phán – chủ toạ phiên toà là rất lớn. Tất cả các hoạt động của Thẩm phán tại thủ tục này nhằm đảm bảo cho việc quản lý vụ án của Toà án được chặt chẽ, đảm bảo cho việc xét xử được đúng đối tượng, đúng thủ tục tố tụng và những người tham gia tố tụng được biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên toà sơ thẩm dân sự.
c, Hỏi tại phiên toà
Theo quy định tại các điều, từ Điều 217 đến Điều 231 BLTTDS thì thủ tục hỏi được tiến hành tuần tự theo các bước: Hỏi để xác định yêu cầu của đương sự và về sự thoả thuận của đương sự; các bên đương sự trình bày về nội dung vụ án và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; hỏi để làm rõ những vấn đề mà đương sự trình bày chưa được rõ hay có mâu thuẫn, công bố lại các tài liệu của vụ án, xem xét vật chứng.
Điều 217 BLTTDS đã quy định cụ thể những vấn đề mà chủ toạ phiên toà cần hỏi đương sự trước khi hỏi về nội dung vụ án. Ví dụ: chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các yêu cầu thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu… Nội dung của điều luật này căn cứ vào nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết và Toà án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Vì vậy, quy định này của BLTTDS giúp Toà án xác định được phạm vi xét sử tại phiên toà sơ thẩm.
- Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Điều 218 BLTTDS quy định về vấn đề xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự. Điều này đảm bảo quyền lợi của đương sự trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, theo quy định của điều luật này thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự khi mà những thay đổi, bổ sung của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập ban đầu. Quy định này vô tình đã làm hạn chế quyền tự định đoạt của các đương sự. Sự hạn chế này thể hiện ở chỗ việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà nếu theo hướng rút bớt yêu cầu thì được còn theo hướng thăng thêm thì không được.
Cùng với quy định tại Điều 218 BLTTDS, NQ02/2006/NQ – HĐTP có hướng dẫn như sau: “không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu là không vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu” tuy nhiên Nghị quyết lại không giải thích cụ thể cụm từ “phạm vi yêu cầu” là phạm vi qua hệ pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu nên chưa giải quyết được triệt để các vướng mắc liên quan đến điều luật này. Từ đó có thể dẫn đến cách hiểu không vượt quá yêu cầu ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới, không được tăng giá trị yêu cầu…Ví dụ ban đầu A kiện B bồi thường 10 triệu đồng vì đã có hành vi chặt cây làm đổ vào nhà của A, gây thiệt hại một phần căn nhà của A. Nhưng trong quá trình tu sửa khắc phục thiệt hại, do giá cả nguyên vật liệu tăng nên A đã phải chi tiêu cho công việc trên hết 30 triệu đồng. Tại phiên toà, A yêu cầu B bồi thường thêm 20 triệu đồng nữa. Với cách hiểu về quy định tại Điều 218 BLTTDS cũng như hướng dẫn tại NQ02/2006/NQ – HĐTP thì yêu cầu của A sẽ không được chấp nhận vì vi phạm
Điều 219 quy định về việc thay đổi địa vị tố tụng. Quy định này đảm bảo việc giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa các bên đương sự, nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp dân sự một cách nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, BLTTDS lại không quy định về thời điểm thực hiện việc phản tố của bị đơn và đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, tại PTSTDS, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không là một vấn đề chưa được quy định rõ ràng.
- Hỏi về việc tự hoà giải của các đương sự
Điều 220 BL...
Bạn download ở link này nhé
You must be registered for see links
Tags: tiểu luận môn luật tố tụng dân sự đánh giá quy định pháp luật về đại diện đương sự, Phân tích, đánh giá về các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về người đại diện của đương sự., luận văn thủ tục tiến hành tố tụng dân sự, Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự