traichuavo_ndt
New Member
Download Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay miễn phí
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN 3
PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT CỦA VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM. 7
1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật trước đại hội Đảng VI. 7
2. Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 9
PHẦN III: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM. 12
1. Nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay. 12
2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất. 12
3. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 13
PHẦN IV: SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA. 15
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
ải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.Lực lượng sản xuất được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất cũ để tạo ra những lực lượng sản xuất mới. Lực lượng sản xuất vừa mang tính xã hội vừa do các thế hệ nối tiếp nhau tạo ra, vừa do các cá nhân trong mỗi giai đoạn xã hội bảo tồn và không ngừng phát triển lên.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử xã hội trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở công cụ lao động. Trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động, ở năng xuất lao động. Năng xuất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Nó được thể hiện ở ba mặt quan hệ cơ bản sau:
- Quan hệ giữa người với người trong việc ở hữu.
- Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức và phân công lao động xã hội.
- Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm xã hội.
Ba mặt của quan hệ sản xuất là một thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các mặt quan hệ khác. Trong hệ thống sản xuất xã hội người sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình phân công lao động, phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình còn người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên.
Lịch sử xã hội loài người đã có hai hình thức sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở đó, họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Mục đích của nền sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Sở hữu xã hội thể hiện điển hình ở hai hình thức cơ bản: sở hữu thị tộc, bộ lạc. Trong cách sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân trong cách sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Từ khái niệm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ta thấy chúng là hai mặt của cách sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong giai đoạn lịch sử đó trình độ lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng cao. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới có nghĩa là cách sản xuất cũ mất đi, cách sản xuất mới ra đời thay thế cho cách sản xuất cũ. C.Mac đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có.... Trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hay “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và sự hoạt động cải tạo xã hội của con người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT CỦA VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
Đất nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên nước ta hiện nay vẫn còn nghèo, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao, năng xuất lao động và sức cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu so với các nước phát triển.
Thực hiện quá trình công nghi