hanjuri_37
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHEWING GUM
1.1. Định nghĩa
Chewing gum (kẹo cao su hay kẹo sinh-gôm do phiên âm từ tiếng Anh chewing gum) là một dạng kẹo được thiết kế mềm đặc biệt, đường sẽ tan nhanh và kẹo sẽ hết ngọt sau khi nhai một thời gian. Loại này chỉ được nhai chứ không nuốt. Theo truyền thống, nó được làm từ nhựa cây chicle, một loại cây ở vùng Trung Mỹ. Tuy nhiên, ngày nay, vì lý do kinh tế và chất lượng nên chewing gum sử dụng chất polymer trên nền dầu mỏ thay cho nhựa cây chicle. Người Mỹ rất thích ăn loại kẹo này và nhai nó suốt ngày. Từ đó, danh tiếng kẹo chewing gum lại được vang đi khắp mọi nơi trên thế giới.
1.2. Lịch sử kẹo chewing gum
Nhiều ngàn năm trước, con người đã nhai gum ở các dạng tự nhiên. Hầu hết các dạng chewing gum cổ thông dụng là nhựa cây, nhưng con người đã sử dụng rất nhiều dạng và hương khác nhau. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy 9 bã nhựa cây bulô ở khu khai quật thuộc thời kỳ đồ đá tại miền Nam nước Đức. Họ nói rằng chất dẻo này “có tác dụng như chất tẩy hay gây tê nhẹ”. Người Hy Lạp cổ đại từng có thói quen nhai một chất gọi là mastic (hay mastiche), loại nhựa chiết từ loại cây có quả hình nón như thông hay vân sam. Còn người Maya thì nhai (để tập cho hàm cứng) loại nhựa lấy từ cây hồng xiêm, được chế biến cho dẻo hơn. Mẫu kẹo cao su được tìm thấy gần đây nhất là ở gần thành phố Ellos thuộc miền Tây Thụy Điển năm 1993. Miếng kẹo 9.000 năm tuổi có trộn mật ong, đã được nhai kỹ, còn cả dấu răng. Thật buồn cười nhưng có lẽ đó là miếng kẹo nhai dở của một thiếu niên người tiền sử. Báo chí Mỹ đã xem đó như một tin giải trí thú vị. Không những thế, một nhà báo Mỹ còn tự hỏi không biết có mẩu kẹo cao su nào được tìm thấy “dính dưới ghế một rạp chiếu bóng thời tiền sử” hay không nữa!
Dạng chewing gum thương mại đầu tiên được làm và bán ra vào năm 1848 bởi chàng thanh niên 21 tuổi John Bacon Curtis sống ở thành phố Bangor (bang Maine, Mỹ) - một công dân hạng bét phải làm công việc dọn dẹp, phát quang cây cối với mức lương 5 đôla/tháng. Anh đã quyết định chuyển sang làm kẹo chewing-gum, đóng gói và đem bán lẻ. Curtis chẳng thể nào biết được chewing-gum sẽ trở thành một trong những mặt hàng biểu trưng cho văn hóa Mỹ.
Tại Thế vận hội hiện đại đầu tiên tổ chức tại Athens năm 1896, các chuyên gia Hy Lạp cho rằng chewing-gum là chất làm tăng khả năng hô hấp giúp vận động viên Mỹ có khả năng và sức mạnh phi thường. Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nhận khẩu phần ăn, binh sĩ Mỹ luôn ì xèo: “Có chewing-gum cho chúng tui không?”. Một quan tòa người Anh từng rất sốc khi thấy một nhân chứng nhai bóp bép chewing-gum trong phòng xử án và cuối cùng đã hét lên: “Này, anh kia. Anh chưa ăn sáng xong hay anh là người Mỹ?”. Vậy là đã có sự đồng hóa chewing-gum với lối sống Mỹ.
Với trợ giúp của bố (một số tài liệu khác cho rằng là anh trai), Curtis đun mẻ nhựa, vớt bỏ vỏ cây và cành non, cuốn thành những thanh dài, cắt thành từng khúc, lăn qua bột ngô để các viên kẹo không dính lại với nhau, sau đó bán 1 xu 2 viên cho các điểm bán lẻ khắp nước Mỹ. Vậy là kẹo cao su làm bằng nhựa sam nguyên chất do Curtis sản xuất xem như thành công. Nhà doanh nghiệp trẻ kiếm được 5.000 đôla trong năm đầu tiên. Năm 1852, anh xây dựng xưởng sản xuất chewing-gum đầu tiên trên thế giới và bán sản phẩm khắp nước. Curtis cũng cho ra lò loại kẹo cao su làm bằng sáp pha thêm chất ngọt và gia vị có mùi vani hay cam thảo (kẹo cao su bằng sáp hiện còn bán trên thị trường với những hình dáng khác nhau như đôi môi đỏ tươi, râu quai nón hay hàm răng trẻ con; loại kẹo này có thể dùng chơi như gắn lên môi, râu hay răng rồi ăn sau).
Do nhu cầu đối với bột gỗ quá lớn dẫn đến cây sam bị đốn nhiều nên lượng nhựa cây không còn đáp ứng đủ nhu cầu chế biến kẹo. Hơn nữa, mùi vị nhựa sam không còn hấp dẫn nên nó được thay thế bằng nguyên liệu khác. Bước đột phá kế tiếp trong lịch sử kẹo cao su thuộc về nhà phát minh - nhiếp ảnh gia người Mỹ Thomas Adams và người hùng lưu vong Mexico Antonio Lopez de Santa Anna, người đã bao vây thành Alamo năm 1836. Bị trục xuất năm 1855, ở tuổi 74, phải trú ngụ trong căn nhà nhỏ ở đảo Staten, Santa Anna vẫn bày mưu tính kế để ngày nào đó giành lại quyền lực. Trong kế hoạch của ông, có cả việc kinh doanh thứ nhựa chiết từ một loại cây nhiệt đới châu Mỹ. Santa Anna hy vọng Adams có thể tìm ra phương pháp biến chất nhựa này thành chất có đặc tính giống cao su với giá thành thấp và nhờ vậy ông có thể thu về món lợi lớn chuẩn bị cho chuyến trở về...
Adams đã mua một tấn nhựa trên và dù nỗ lực hết sức vẫn không thể biến nó thành chất giống cao su được. Tuy nhiên, trong lần nhìn thấy một cô gái ra khỏi hiệu thuốc với viên kẹo cao su White Mountain của Curtis, Adams chợt nảy ra một ý tưởng hoàn toàn mới: nếu không thể biến chất này thành cao su thì ít ra cũng có thể dùng nó để nhai. Vậy là ông tức tốc về nhà, lấy mấy viên gửi cho chủ hiệu thuốc nhờ bán giùm. Mẻ nhựa sau, ông cắt thành từng thỏi, gói trong giấy lụa màu. Năm 1871, Adams chế tạo thành công máy làm kẹo cao su và cho thêm hương vị vào chewing-gum. Một trong số đó là kẹo Black Jack hương cam thảo. Vào thập niên 1880, cơ sở của ông đã có tới 250 nhân viên (phần Santa Anna, ông chết trong cùng kiệt khổ ở Mexico năm 1876, sau khi kế hoạch biến nhựa mủ thành cao su giá rẻ thất bại). Những chiếc máy làm kẹo cao su được chế tạo từ cuối thế kỷ 19 nhanh chóng lỗi thời do kẹo làm ra dễ bị hôi và máy thường trục trặc. Năm 1918, Ford S. Mason cho ra đời thế hệ máy làm kẹo cao su hiện đại. Còn bố của Ford, một mục sư, thì sáng chế máy bán hàng tự động rất dễ dùng mà đến nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi khắp thế giới.
Nhà buôn Lyle Becker nhảy vào thị trường với ý tưởng bán kèm theo vật trang trí bằng nhựa dẻo xinh xắn. Một phát kiến khác nữa của Becker là khi mua một nắm kẹo cao su sẽ được tặng kèm vài viên kẹo ngọt. Cuối thế kỷ 19, đã có nhiều người quan tâm đến ngành kinh doanh kẹo cao su. John Colgan thuộc Louisville (bang Kentucky, Mỹ) đã cho thêm nhựa thơm từ cây tolu (balsam tolu), lấy tên thương hiệu là Taffy-Tolu. Loại nhựa này trước đó có trong sirô ho. Jonathan P. Primley, người da đỏ, thì khai thác khía cạnh tình dục với sản phẩm Kiss Me. Edward E. Beeman, nhà chế tạo người Cleveland, cho ra đời loại kẹo cao su mà khi ăn sẽ “sản sinh chất pepxin giúp dạ dày tiêu hóa”. Ông chào hàng kẹo cao su như là một phương thuốc điều trị chứng ợ nóng. William J. White là người đầu tiên cho bạc hà vào kẹo cao su và tăng lượng sirô ngũ cốc, để kẹo giữ mùi thơm. Kẹo cao su hiệu Yucatan rất được ưa chuộng. William trở nên giàu có. Ông mua tòa lâu đài 52 phòng trên con đường dành cho các triệu phú, đại lộ Row-West, thành phố Cleveland.
Tuy nhiên, chính William Wrigley Jr. là người nâng việc tiếp thị kẹo cao su lên tầm nghệ thuật. Mùa xuân năm 1891, Wrigley chuyển từ Philadelphia đến Chicago. Bố ông là nhà sản xuất xà phòng mới vào nghề và phải đi bán lẻ từng bánh. Sau đó, Wrigley nghĩ ra cách tặng bột nổi cho cửa hàng bán lẻ nếu họ mua xà phòng. Thời gian sau, bột nổi lại được thị trường ưa chuộng hơn và ông chuyển bột nổi thành sản phẩm chính và khuyến mãi hai gói chewing - gum cho khách hàng mua một hộp bột nổi. Một lần nữa, hàng khuyến mãi lần lượt lướt mặt hàng chính. Từ đó, Wrigley chuyển sang kinh doanh chewing-gum và ký hợp đồng sản xuất với Công ty Zeno Gum. Đầu tiên, Zeno Gum sản xuất kẹo cao su từ sáp nhưng Wrigley yêu cầu thay bằng nhựa chicle. Sản phẩm đầu tiên được đặt tên Lotta, rồi Vassar và sau đó là Sweet Seventeen Orange. Năm 1893, ông tung ra chewing-gum hương trái cây và bạc hà với tên Juicy Fruit và Spearmint.
Wrigley gặp phải sự cạnh tranh dữ dội. Thời đó, ít nhất cũng có một tá công ty kinh doanh mặt hàng này. Năm 1899, 6 công ty sản xuất chewing-gum lớn nhất bấy giờ, có cả Công ty Thomas Adams, đã cùng bắt tay tạo nên thế mạnh về uy tín cho sản phẩm của họ. Tuy nhiên, Wrigley từ chối tham gia. Ông thích được tự do. Ngoài việc kiểm tra khắt khe chất lượng sản phẩm, ông còn là người có óc tiếp thị. Ông từng nói: “Bất kỳ ai cũng có thể sản xuất chewing-gum nhưng bán được nó hay không mới là vấn đề”. Ông cho dán áp phích quảng cáo trên xe điện và tàu điện ngầm. Ngoài ra, ông còn đặt bảng điện ở khắp nơi. Mỗi năm, công ty phải trả hơn 100.000 đôla tiền điện để duy trì bảng đèn ở quảng trường Times (Manhattan, New York). Ông còn gửi tặng hàng triệu mẫu kẹo cho mọi người. Cách tiếp cận khách hàng ấn tượng nhất là bảng hiệu dài hàng dặm gồm 117 bảng quảng cáo nối liền nhau theo tuyến đường ray chạy giữa Atlantic và Trenton (New Jersey). Ông còn phát hành tập sách nhỏ Mother Goose, in 14 triệu bản và phát khắp nơi. Nội dung cuốn sách là những vần thơ ca ngợi viên kẹo cao su Wrigley, chẳng hạn: Jack thông minh/ Jack nhanh nhẹn/ Jack chạy thật nhanh/ Để được nhận/ Kẹo Wrigley!
Spearmint trở thành kẹo cao su được ưa chuộng nhất nước Mỹ. Năm 1910, Wrigley cho xây dựng nhà máy kẹo cao su đầu tiên ở Canada, trong số rất nhiều nhà máy được xây dựng ở nước ngoài sau này. Thế mạnh về loại kẹo cao su sắc màu đã mang lại lợi nhuận lớn và Wrigley tái đầu tư vào lĩnh vực giải trí. Ông mua khu nghỉ mát Arizona Biltmore và hòn đảo Catalia dọc bờ biển California với giá 2 triệu đôla, chi ra 2 triệu đôla nữa để xây dựng một vũ trường và trại chim với hơn 6.000 con. Nhằm đánh bóng hình ảnh công ty, ông thuê kiến trúc sư nổi tiếng nhất Chicago bấy giờ xây “ngôi nhà biểu tượng kẹo cao su”. Tòa nhà cao làm bằng đất nung sơn trắng rất đẹp đã trở thành cảnh quan đặc biệt của thành phố. Tên tuổi Wrigley còn gắn liền với đội bóng chày Chicago Cubs. Wrigley trở thành nhân vật được mến mộ thời đó. Ông nổi tiếng với cách đối xử tốt, qua việc tổ chức giặt là quần áo miễn phí cho công nhân; cắt móng tay miễn phí cho công nhân nữ; cung cấp chế độ bảo hiểm nhân thọ và phát lương đúng kỳ. Wrigley còn là ông chủ đầu tiên ở Mỹ cho công nhân nghỉ hai ngày cuối tuần. Ngoài năng lực, nghị lực và nghệ thuật bán hàng, thành công của Wrigley còn có được nhờ quan điểm sống vui vẻ và cởi mở. Đối với ông, nỗi khiếp sợ chính là thứ hủy hoại ước mơ: “Hàng ngàn người đã bị chi phối bởi điều này. tui đã bị phá sản ba lần từ khi bắt đầu nghiệp kinh doanh. Chẳng ai biết điều này ngoại trừ tui và nó cũng chẳng làm tui mất ngủ phút giây nào. Chẳng có thứ gì trên đời có thể làm tổn thương bạn ngoài chính bạn!”. William Wrigley Jr. chết năm 1932...
Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời loại kẹo cao su có thể tạo ra bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng gây được tiếng vang nào. Bóng nổ sau khi ra khỏi miệng và cao su văng dính khắp mặt. Cho đến một ngày tháng 8/1928, một công nhân của Fleer tên là Walter Diemer đã tìm ra lời giải. Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi nổ thì lớp cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép khối lượng và số lượng các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành công. Sau này, ông nhớ lại: “Ôi, may quá. Mấy cái máy bắt đầu gầm lên thì hỗn hợp cũng bắt đầu nổ lốp bốp và rồi... tui chợt nhớ mình quên bỏ bột màu vào!”. Hôm sau, Diemer làm mẻ kẹo khác; lần này, với chai phẩm màu hồng để kế bên. Chewing-gum này được đặt tên Bubble và màu hồng của kẹo cao su thổi bóng ngày nay cũng chính là màu hồng mà “ông tổ” Walter Diemer đã dùng hồi đó mà ra.
Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả của sự thiếu thốn trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 đôla/viên. Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau. Chiến tranh kết thúc, nhu cầu kẹo cao su còn dữ dội hơn. Một ý tưởng trong kinh doanh là bỏ danh thiếp hay truyện tranh vào hộp kẹo. Danh thiếp doanh nghiệp từng có từ thập niên 1880, khi người ta bỏ nó vào gói thuốc lá. Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên “danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và một năm sau mua luôn Bowman. Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.
Các công ty kinh doanh kẹo cao su tiếp tục cạnh tranh để tồn tại và đưa ra thị trường sản phẩm tốt cũng như hấp dẫn hơn. Kẹo cao su còn được dùng như dược phẩm khi các nhà sản xuất cho ra đời loại chứa aspirin, nicotin, chất nhuận tràng và chống
Trước đó vào năm 2007, Bộ Môi trường Ireland từng tổ chức cuộc thi chế tạo kẹo cao su không dính với phần thưởng một triệu euro. Trong năm đó một nhóm kỹ sư của Đại học Bristol (Anh) đã công bố sản phẩm mới. Tuy nhiên, cho tới nay loại kẹo cao su đó vẫn chưa được sản xuất ở quy mô công nghiệp.
4.2. Chống sâu răng bằng kẹo cao su chứa Xylitol
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh nhai kẹo cao su chứa từ 50% xylitol trở lên sẽ giảm thiểu 30%-60% nguy cơ sâu răng. Theo bài viết của tác giả Laura Johannes đăng trên Thời báo phố Wall số ra ngày 2/7/2006, kẹo cao su xylitol, chứa chất ngọt xylitol thay thế đường, có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe và vẻ đẹp thẩm mỹ của hàm răng con người.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em có thể được bảo vệ khỏi nguy cơ sâu răng bằng cách nhai kẹo cao su từ khi bắt đầu thay răng. Bên cạnh đó, vi khuẩn gây sâu răng dễ dàng truyền từ mẹ sang con – có thể do tiếp xúc trực tiếp giữa hai mẹ con – thì con đường này có thể được ngăn chặn nếu người mẹ nhai kẹo cao su có chứa xylitol ngay từ khi trẻ đang mọc răng sữa.
Người trưởng thành có nguy cơ bị sâu răng cao, ví dụ như những người dùng thuốc gây tác dụng phụ làm miệng khô và giảm sức để kháng của khoang miệng cũng sẽ nhận thấy hiệu quả tích cực nếu sử dụng kẹo cao su chứa xylitol.
Nghiên cứu trên phạm vi toàn thế giới về thiếu niên trong độ tuổi đến trường đã chỉ ra rằng nhai kẹo cao su có xylitol sẽ làm giảm 30% đến 60% nguy cơ bị sâu răng, và nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng kẹo cao su xylitol có tác dụng tốt hơn nhiều so với kẹo cao su chứa đường thông thường. Viện Sức khỏe quốc gia của Mỹ gần đây đã công bố trên Thời báo Nghiên cứu nha khoa rằng nhai kẹo cao su với liều lượng 7-10 grams xylitol mỗi ngày trong vòng 5 tuần sẽ làm nguy cơ sâu răng giảm xuống chỉ còn 1/10. Nếu nhai kẹo cao su với liều lượng 3,44 gram xylitol mỗi ngày hay ít hơn, vi khuẩn gây sâu răng sẽ không bị ảnh hưởng.
4.3. Kẹo cao su nicotine
Gồm hai loại hàm lượng 2 mg và 4 mg, trộn với chất đệm là carbonate và natri bicarbonate để nicotine dễ được hấp thu qua niêm mạc miệng. 50 % lượng nicotine có trong kẹo được giải phóng ở khoang miệng, hấp thụ dần dần qua niêm mạc và đi vào tĩnh mạch với tốc độ chậm.
Người cai khi đã ngừng hút hoàn toàn cần nhai một kẹo cao su nicotine mỗi khi thèm thuốc, thường là 12-16 kẹo/ngày. Cần nhai rất chậm (1 lần/phút, cứ 10 phút lại nghỉ 2 phút). Tránh nuốt nước bọt để nicotine này chỉ được hấp thu qua niêm mạc miệng. Nicotine được phóng thích ra hoàn toàn sau khoảng 30 phút nhai. Trung bình 10-12 kẹo loại 2 mg nicotine sẽ cung cấp 1/3 nhu cầu của một người hút 30 điếu thuốc mỗi ngày. Dùng 1 kẹo cao su 20 mg tương đương với hút 2 điếu thuốc lá. Nếu đối tượng hút trên 20 điếu/ngày thì dùng loại kẹo cao su 4 mg nicotine.
Người cai thuốc sẽ nhanh chóng tìm được số lượng kẹo thích hợp dùng hằng ngày để không còn cảm giác thiếu nicotine. Dần dần, người cai phải giảm số lượng kẹo mỗi ngày cho tới khi ngừng hoàn toàn. Không nên dùng liên tục quá 6 tháng.
Các tác dụng phụ tại chỗ của kẹo nicotine gồm có: Kích thích họng, tăng tiết nước bọt, các vết loét niêm mạc miệng, đau khoang miệng và cơ nhai. Các tác dụng phụ toàn thân chủ yếu là ở đường tiêu hóa: ợ, buồn nôn, chán ăn, có thể mất ngủ và kích thích. Khoảng 10% số người đã cai thuốc tiếp tục dùng kẹo nicotine 12 tháng sau khi ngừng hút thuốc.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHEWING GUM
1.1. Định nghĩa
Chewing gum (kẹo cao su hay kẹo sinh-gôm do phiên âm từ tiếng Anh chewing gum) là một dạng kẹo được thiết kế mềm đặc biệt, đường sẽ tan nhanh và kẹo sẽ hết ngọt sau khi nhai một thời gian. Loại này chỉ được nhai chứ không nuốt. Theo truyền thống, nó được làm từ nhựa cây chicle, một loại cây ở vùng Trung Mỹ. Tuy nhiên, ngày nay, vì lý do kinh tế và chất lượng nên chewing gum sử dụng chất polymer trên nền dầu mỏ thay cho nhựa cây chicle. Người Mỹ rất thích ăn loại kẹo này và nhai nó suốt ngày. Từ đó, danh tiếng kẹo chewing gum lại được vang đi khắp mọi nơi trên thế giới.
1.2. Lịch sử kẹo chewing gum
Nhiều ngàn năm trước, con người đã nhai gum ở các dạng tự nhiên. Hầu hết các dạng chewing gum cổ thông dụng là nhựa cây, nhưng con người đã sử dụng rất nhiều dạng và hương khác nhau. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy 9 bã nhựa cây bulô ở khu khai quật thuộc thời kỳ đồ đá tại miền Nam nước Đức. Họ nói rằng chất dẻo này “có tác dụng như chất tẩy hay gây tê nhẹ”. Người Hy Lạp cổ đại từng có thói quen nhai một chất gọi là mastic (hay mastiche), loại nhựa chiết từ loại cây có quả hình nón như thông hay vân sam. Còn người Maya thì nhai (để tập cho hàm cứng) loại nhựa lấy từ cây hồng xiêm, được chế biến cho dẻo hơn. Mẫu kẹo cao su được tìm thấy gần đây nhất là ở gần thành phố Ellos thuộc miền Tây Thụy Điển năm 1993. Miếng kẹo 9.000 năm tuổi có trộn mật ong, đã được nhai kỹ, còn cả dấu răng. Thật buồn cười nhưng có lẽ đó là miếng kẹo nhai dở của một thiếu niên người tiền sử. Báo chí Mỹ đã xem đó như một tin giải trí thú vị. Không những thế, một nhà báo Mỹ còn tự hỏi không biết có mẩu kẹo cao su nào được tìm thấy “dính dưới ghế một rạp chiếu bóng thời tiền sử” hay không nữa!
Dạng chewing gum thương mại đầu tiên được làm và bán ra vào năm 1848 bởi chàng thanh niên 21 tuổi John Bacon Curtis sống ở thành phố Bangor (bang Maine, Mỹ) - một công dân hạng bét phải làm công việc dọn dẹp, phát quang cây cối với mức lương 5 đôla/tháng. Anh đã quyết định chuyển sang làm kẹo chewing-gum, đóng gói và đem bán lẻ. Curtis chẳng thể nào biết được chewing-gum sẽ trở thành một trong những mặt hàng biểu trưng cho văn hóa Mỹ.
Tại Thế vận hội hiện đại đầu tiên tổ chức tại Athens năm 1896, các chuyên gia Hy Lạp cho rằng chewing-gum là chất làm tăng khả năng hô hấp giúp vận động viên Mỹ có khả năng và sức mạnh phi thường. Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nhận khẩu phần ăn, binh sĩ Mỹ luôn ì xèo: “Có chewing-gum cho chúng tui không?”. Một quan tòa người Anh từng rất sốc khi thấy một nhân chứng nhai bóp bép chewing-gum trong phòng xử án và cuối cùng đã hét lên: “Này, anh kia. Anh chưa ăn sáng xong hay anh là người Mỹ?”. Vậy là đã có sự đồng hóa chewing-gum với lối sống Mỹ.
Với trợ giúp của bố (một số tài liệu khác cho rằng là anh trai), Curtis đun mẻ nhựa, vớt bỏ vỏ cây và cành non, cuốn thành những thanh dài, cắt thành từng khúc, lăn qua bột ngô để các viên kẹo không dính lại với nhau, sau đó bán 1 xu 2 viên cho các điểm bán lẻ khắp nước Mỹ. Vậy là kẹo cao su làm bằng nhựa sam nguyên chất do Curtis sản xuất xem như thành công. Nhà doanh nghiệp trẻ kiếm được 5.000 đôla trong năm đầu tiên. Năm 1852, anh xây dựng xưởng sản xuất chewing-gum đầu tiên trên thế giới và bán sản phẩm khắp nước. Curtis cũng cho ra lò loại kẹo cao su làm bằng sáp pha thêm chất ngọt và gia vị có mùi vani hay cam thảo (kẹo cao su bằng sáp hiện còn bán trên thị trường với những hình dáng khác nhau như đôi môi đỏ tươi, râu quai nón hay hàm răng trẻ con; loại kẹo này có thể dùng chơi như gắn lên môi, râu hay răng rồi ăn sau).
Do nhu cầu đối với bột gỗ quá lớn dẫn đến cây sam bị đốn nhiều nên lượng nhựa cây không còn đáp ứng đủ nhu cầu chế biến kẹo. Hơn nữa, mùi vị nhựa sam không còn hấp dẫn nên nó được thay thế bằng nguyên liệu khác. Bước đột phá kế tiếp trong lịch sử kẹo cao su thuộc về nhà phát minh - nhiếp ảnh gia người Mỹ Thomas Adams và người hùng lưu vong Mexico Antonio Lopez de Santa Anna, người đã bao vây thành Alamo năm 1836. Bị trục xuất năm 1855, ở tuổi 74, phải trú ngụ trong căn nhà nhỏ ở đảo Staten, Santa Anna vẫn bày mưu tính kế để ngày nào đó giành lại quyền lực. Trong kế hoạch của ông, có cả việc kinh doanh thứ nhựa chiết từ một loại cây nhiệt đới châu Mỹ. Santa Anna hy vọng Adams có thể tìm ra phương pháp biến chất nhựa này thành chất có đặc tính giống cao su với giá thành thấp và nhờ vậy ông có thể thu về món lợi lớn chuẩn bị cho chuyến trở về...
Adams đã mua một tấn nhựa trên và dù nỗ lực hết sức vẫn không thể biến nó thành chất giống cao su được. Tuy nhiên, trong lần nhìn thấy một cô gái ra khỏi hiệu thuốc với viên kẹo cao su White Mountain của Curtis, Adams chợt nảy ra một ý tưởng hoàn toàn mới: nếu không thể biến chất này thành cao su thì ít ra cũng có thể dùng nó để nhai. Vậy là ông tức tốc về nhà, lấy mấy viên gửi cho chủ hiệu thuốc nhờ bán giùm. Mẻ nhựa sau, ông cắt thành từng thỏi, gói trong giấy lụa màu. Năm 1871, Adams chế tạo thành công máy làm kẹo cao su và cho thêm hương vị vào chewing-gum. Một trong số đó là kẹo Black Jack hương cam thảo. Vào thập niên 1880, cơ sở của ông đã có tới 250 nhân viên (phần Santa Anna, ông chết trong cùng kiệt khổ ở Mexico năm 1876, sau khi kế hoạch biến nhựa mủ thành cao su giá rẻ thất bại). Những chiếc máy làm kẹo cao su được chế tạo từ cuối thế kỷ 19 nhanh chóng lỗi thời do kẹo làm ra dễ bị hôi và máy thường trục trặc. Năm 1918, Ford S. Mason cho ra đời thế hệ máy làm kẹo cao su hiện đại. Còn bố của Ford, một mục sư, thì sáng chế máy bán hàng tự động rất dễ dùng mà đến nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi khắp thế giới.
Nhà buôn Lyle Becker nhảy vào thị trường với ý tưởng bán kèm theo vật trang trí bằng nhựa dẻo xinh xắn. Một phát kiến khác nữa của Becker là khi mua một nắm kẹo cao su sẽ được tặng kèm vài viên kẹo ngọt. Cuối thế kỷ 19, đã có nhiều người quan tâm đến ngành kinh doanh kẹo cao su. John Colgan thuộc Louisville (bang Kentucky, Mỹ) đã cho thêm nhựa thơm từ cây tolu (balsam tolu), lấy tên thương hiệu là Taffy-Tolu. Loại nhựa này trước đó có trong sirô ho. Jonathan P. Primley, người da đỏ, thì khai thác khía cạnh tình dục với sản phẩm Kiss Me. Edward E. Beeman, nhà chế tạo người Cleveland, cho ra đời loại kẹo cao su mà khi ăn sẽ “sản sinh chất pepxin giúp dạ dày tiêu hóa”. Ông chào hàng kẹo cao su như là một phương thuốc điều trị chứng ợ nóng. William J. White là người đầu tiên cho bạc hà vào kẹo cao su và tăng lượng sirô ngũ cốc, để kẹo giữ mùi thơm. Kẹo cao su hiệu Yucatan rất được ưa chuộng. William trở nên giàu có. Ông mua tòa lâu đài 52 phòng trên con đường dành cho các triệu phú, đại lộ Row-West, thành phố Cleveland.
Tuy nhiên, chính William Wrigley Jr. là người nâng việc tiếp thị kẹo cao su lên tầm nghệ thuật. Mùa xuân năm 1891, Wrigley chuyển từ Philadelphia đến Chicago. Bố ông là nhà sản xuất xà phòng mới vào nghề và phải đi bán lẻ từng bánh. Sau đó, Wrigley nghĩ ra cách tặng bột nổi cho cửa hàng bán lẻ nếu họ mua xà phòng. Thời gian sau, bột nổi lại được thị trường ưa chuộng hơn và ông chuyển bột nổi thành sản phẩm chính và khuyến mãi hai gói chewing - gum cho khách hàng mua một hộp bột nổi. Một lần nữa, hàng khuyến mãi lần lượt lướt mặt hàng chính. Từ đó, Wrigley chuyển sang kinh doanh chewing-gum và ký hợp đồng sản xuất với Công ty Zeno Gum. Đầu tiên, Zeno Gum sản xuất kẹo cao su từ sáp nhưng Wrigley yêu cầu thay bằng nhựa chicle. Sản phẩm đầu tiên được đặt tên Lotta, rồi Vassar và sau đó là Sweet Seventeen Orange. Năm 1893, ông tung ra chewing-gum hương trái cây và bạc hà với tên Juicy Fruit và Spearmint.
Wrigley gặp phải sự cạnh tranh dữ dội. Thời đó, ít nhất cũng có một tá công ty kinh doanh mặt hàng này. Năm 1899, 6 công ty sản xuất chewing-gum lớn nhất bấy giờ, có cả Công ty Thomas Adams, đã cùng bắt tay tạo nên thế mạnh về uy tín cho sản phẩm của họ. Tuy nhiên, Wrigley từ chối tham gia. Ông thích được tự do. Ngoài việc kiểm tra khắt khe chất lượng sản phẩm, ông còn là người có óc tiếp thị. Ông từng nói: “Bất kỳ ai cũng có thể sản xuất chewing-gum nhưng bán được nó hay không mới là vấn đề”. Ông cho dán áp phích quảng cáo trên xe điện và tàu điện ngầm. Ngoài ra, ông còn đặt bảng điện ở khắp nơi. Mỗi năm, công ty phải trả hơn 100.000 đôla tiền điện để duy trì bảng đèn ở quảng trường Times (Manhattan, New York). Ông còn gửi tặng hàng triệu mẫu kẹo cho mọi người. Cách tiếp cận khách hàng ấn tượng nhất là bảng hiệu dài hàng dặm gồm 117 bảng quảng cáo nối liền nhau theo tuyến đường ray chạy giữa Atlantic và Trenton (New Jersey). Ông còn phát hành tập sách nhỏ Mother Goose, in 14 triệu bản và phát khắp nơi. Nội dung cuốn sách là những vần thơ ca ngợi viên kẹo cao su Wrigley, chẳng hạn: Jack thông minh/ Jack nhanh nhẹn/ Jack chạy thật nhanh/ Để được nhận/ Kẹo Wrigley!
Spearmint trở thành kẹo cao su được ưa chuộng nhất nước Mỹ. Năm 1910, Wrigley cho xây dựng nhà máy kẹo cao su đầu tiên ở Canada, trong số rất nhiều nhà máy được xây dựng ở nước ngoài sau này. Thế mạnh về loại kẹo cao su sắc màu đã mang lại lợi nhuận lớn và Wrigley tái đầu tư vào lĩnh vực giải trí. Ông mua khu nghỉ mát Arizona Biltmore và hòn đảo Catalia dọc bờ biển California với giá 2 triệu đôla, chi ra 2 triệu đôla nữa để xây dựng một vũ trường và trại chim với hơn 6.000 con. Nhằm đánh bóng hình ảnh công ty, ông thuê kiến trúc sư nổi tiếng nhất Chicago bấy giờ xây “ngôi nhà biểu tượng kẹo cao su”. Tòa nhà cao làm bằng đất nung sơn trắng rất đẹp đã trở thành cảnh quan đặc biệt của thành phố. Tên tuổi Wrigley còn gắn liền với đội bóng chày Chicago Cubs. Wrigley trở thành nhân vật được mến mộ thời đó. Ông nổi tiếng với cách đối xử tốt, qua việc tổ chức giặt là quần áo miễn phí cho công nhân; cắt móng tay miễn phí cho công nhân nữ; cung cấp chế độ bảo hiểm nhân thọ và phát lương đúng kỳ. Wrigley còn là ông chủ đầu tiên ở Mỹ cho công nhân nghỉ hai ngày cuối tuần. Ngoài năng lực, nghị lực và nghệ thuật bán hàng, thành công của Wrigley còn có được nhờ quan điểm sống vui vẻ và cởi mở. Đối với ông, nỗi khiếp sợ chính là thứ hủy hoại ước mơ: “Hàng ngàn người đã bị chi phối bởi điều này. tui đã bị phá sản ba lần từ khi bắt đầu nghiệp kinh doanh. Chẳng ai biết điều này ngoại trừ tui và nó cũng chẳng làm tui mất ngủ phút giây nào. Chẳng có thứ gì trên đời có thể làm tổn thương bạn ngoài chính bạn!”. William Wrigley Jr. chết năm 1932...
Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời loại kẹo cao su có thể tạo ra bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng gây được tiếng vang nào. Bóng nổ sau khi ra khỏi miệng và cao su văng dính khắp mặt. Cho đến một ngày tháng 8/1928, một công nhân của Fleer tên là Walter Diemer đã tìm ra lời giải. Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi nổ thì lớp cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép khối lượng và số lượng các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành công. Sau này, ông nhớ lại: “Ôi, may quá. Mấy cái máy bắt đầu gầm lên thì hỗn hợp cũng bắt đầu nổ lốp bốp và rồi... tui chợt nhớ mình quên bỏ bột màu vào!”. Hôm sau, Diemer làm mẻ kẹo khác; lần này, với chai phẩm màu hồng để kế bên. Chewing-gum này được đặt tên Bubble và màu hồng của kẹo cao su thổi bóng ngày nay cũng chính là màu hồng mà “ông tổ” Walter Diemer đã dùng hồi đó mà ra.
Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả của sự thiếu thốn trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 đôla/viên. Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau. Chiến tranh kết thúc, nhu cầu kẹo cao su còn dữ dội hơn. Một ý tưởng trong kinh doanh là bỏ danh thiếp hay truyện tranh vào hộp kẹo. Danh thiếp doanh nghiệp từng có từ thập niên 1880, khi người ta bỏ nó vào gói thuốc lá. Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên “danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và một năm sau mua luôn Bowman. Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.
Các công ty kinh doanh kẹo cao su tiếp tục cạnh tranh để tồn tại và đưa ra thị trường sản phẩm tốt cũng như hấp dẫn hơn. Kẹo cao su còn được dùng như dược phẩm khi các nhà sản xuất cho ra đời loại chứa aspirin, nicotin, chất nhuận tràng và chống
Trước đó vào năm 2007, Bộ Môi trường Ireland từng tổ chức cuộc thi chế tạo kẹo cao su không dính với phần thưởng một triệu euro. Trong năm đó một nhóm kỹ sư của Đại học Bristol (Anh) đã công bố sản phẩm mới. Tuy nhiên, cho tới nay loại kẹo cao su đó vẫn chưa được sản xuất ở quy mô công nghiệp.
4.2. Chống sâu răng bằng kẹo cao su chứa Xylitol
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh nhai kẹo cao su chứa từ 50% xylitol trở lên sẽ giảm thiểu 30%-60% nguy cơ sâu răng. Theo bài viết của tác giả Laura Johannes đăng trên Thời báo phố Wall số ra ngày 2/7/2006, kẹo cao su xylitol, chứa chất ngọt xylitol thay thế đường, có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe và vẻ đẹp thẩm mỹ của hàm răng con người.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em có thể được bảo vệ khỏi nguy cơ sâu răng bằng cách nhai kẹo cao su từ khi bắt đầu thay răng. Bên cạnh đó, vi khuẩn gây sâu răng dễ dàng truyền từ mẹ sang con – có thể do tiếp xúc trực tiếp giữa hai mẹ con – thì con đường này có thể được ngăn chặn nếu người mẹ nhai kẹo cao su có chứa xylitol ngay từ khi trẻ đang mọc răng sữa.
Người trưởng thành có nguy cơ bị sâu răng cao, ví dụ như những người dùng thuốc gây tác dụng phụ làm miệng khô và giảm sức để kháng của khoang miệng cũng sẽ nhận thấy hiệu quả tích cực nếu sử dụng kẹo cao su chứa xylitol.
Nghiên cứu trên phạm vi toàn thế giới về thiếu niên trong độ tuổi đến trường đã chỉ ra rằng nhai kẹo cao su có xylitol sẽ làm giảm 30% đến 60% nguy cơ bị sâu răng, và nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng kẹo cao su xylitol có tác dụng tốt hơn nhiều so với kẹo cao su chứa đường thông thường. Viện Sức khỏe quốc gia của Mỹ gần đây đã công bố trên Thời báo Nghiên cứu nha khoa rằng nhai kẹo cao su với liều lượng 7-10 grams xylitol mỗi ngày trong vòng 5 tuần sẽ làm nguy cơ sâu răng giảm xuống chỉ còn 1/10. Nếu nhai kẹo cao su với liều lượng 3,44 gram xylitol mỗi ngày hay ít hơn, vi khuẩn gây sâu răng sẽ không bị ảnh hưởng.
4.3. Kẹo cao su nicotine
Gồm hai loại hàm lượng 2 mg và 4 mg, trộn với chất đệm là carbonate và natri bicarbonate để nicotine dễ được hấp thu qua niêm mạc miệng. 50 % lượng nicotine có trong kẹo được giải phóng ở khoang miệng, hấp thụ dần dần qua niêm mạc và đi vào tĩnh mạch với tốc độ chậm.
Người cai khi đã ngừng hút hoàn toàn cần nhai một kẹo cao su nicotine mỗi khi thèm thuốc, thường là 12-16 kẹo/ngày. Cần nhai rất chậm (1 lần/phút, cứ 10 phút lại nghỉ 2 phút). Tránh nuốt nước bọt để nicotine này chỉ được hấp thu qua niêm mạc miệng. Nicotine được phóng thích ra hoàn toàn sau khoảng 30 phút nhai. Trung bình 10-12 kẹo loại 2 mg nicotine sẽ cung cấp 1/3 nhu cầu của một người hút 30 điếu thuốc mỗi ngày. Dùng 1 kẹo cao su 20 mg tương đương với hút 2 điếu thuốc lá. Nếu đối tượng hút trên 20 điếu/ngày thì dùng loại kẹo cao su 4 mg nicotine.
Người cai thuốc sẽ nhanh chóng tìm được số lượng kẹo thích hợp dùng hằng ngày để không còn cảm giác thiếu nicotine. Dần dần, người cai phải giảm số lượng kẹo mỗi ngày cho tới khi ngừng hoàn toàn. Không nên dùng liên tục quá 6 tháng.
Các tác dụng phụ tại chỗ của kẹo nicotine gồm có: Kích thích họng, tăng tiết nước bọt, các vết loét niêm mạc miệng, đau khoang miệng và cơ nhai. Các tác dụng phụ toàn thân chủ yếu là ở đường tiêu hóa: ợ, buồn nôn, chán ăn, có thể mất ngủ và kích thích. Khoảng 10% số người đã cai thuốc tiếp tục dùng kẹo nicotine 12 tháng sau khi ngừng hút thuốc.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: