kadetic_khangdt2
New Member
Download Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều khiển, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau 10 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại, giá các loại chứng khoán biến động phức tạp khiến nhiều NĐT thua lỗ nặng, cầu chứng khoán suy giảm, thị trường trở nên buồn tẻ. Giải pháp cho vấn đề ngày như thế nào? Có biện pháp gì để bảo vệ NĐT khi giá chứng khoán liên tục giảm hay giảm đột biến?
Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá mua chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ được lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới. Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hay tạo lợi nhuận. Các quyền chọn chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu tư hay để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng giây từng phút thì việc nắm trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.
Tuy nhiên dịch vụ quyền chọn tiền đồng có đặc thù là ngân hàng không thể tái bảo hiểm sản phẩm của mình ở một đơn vị thứ 3, vì vậy rủi ro đối với bên bán là rất lớn. Điều này khiến các Ngân hàng phải tự tính toán cân đối thu nhập, chi phí và tự bảo hiểm bằng đồng tiền nào cho phù hợp. Dịch vụ này cũng chỉ tập trung chủ yếu phục vụ các DN kinh doanh XNK và phần lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, quy mô hợp đồng tối thiểu đối với ngoại tệ khác là 100.000 USD hay tương đương là quá cao. Đây là một bất lợi khiến các cá nhân và DN vừa và nhỏ có nhu cầu bảo hiểm tỷ giá cho một lượng ngoại tệ nhỏ hơn không thể tham gia nghiệp vụ này.
Thị trường tiền tệ Việt Nam chưa gặp những biến động lớn cho nên các DN chưa quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro. Họ quan niệm rằng tỷ giá thì có Nhà nước ổn định; lãi suất thì Ngân hàng Trung ương cũng không cho biến động mạnh và vì thế họ an tâm kinh doanh mà bỏ qua các chiếc lược phòng ngừa rủi ro tiền tệ.
Mức phí quyền chọn mà các NHTM đưa ra cho DN thời gian qua còn cao, chưa hợp lý và không mang tính khuyến khích sử dụng. Vì thế, các DN tính toán không có lợi nên không muốn tham gia vào nghiệp vụ này, vì tham gia thì sẽ mất một khoản tiền trước mắt (khoản phí) mà không thấy rủi ro gì đáng kể. Vì vậy mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân hàng không đáng kể.
Tuy nhiên đến tháng 03 năm 2009 để ổn định thị trường ngoại hối có diễn biến phức tạp Thống đốc NHNN đã ban hành văn bản số 1820/NHNN-QLNH yêu cầu NHTM dừng thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng kể từ 23/3/2009.
2.2.3 Quyền chọn vàng.
Các Ngân hàng đã đưa ra sản phẩm quyền chọn từ cuối năm 2004 như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn tiền đồng, nhưng chưa có quyền chọn vàng. Do trong năm 2005, giá vàng liên tục biến động khiến các DN kinh doanh vàng bạc đá quý mới thực sự quan tâm. Vì thế, các NHTM, sau khi trình và được phép của NHNN, đã phải rất tích cực chuẩn bị cả về nhân lực, vật lực lẫn đào tạo chuyên môn…để có thể đưa ra thị trường sản phẩm quyền chọn Vàng phục vụ khách hàng. Ngoài 3 ngân hàng lớn thực hiện quyền bằng vàng là Vietcombank, Agribank và BIDV thì một số NHTM cổ phần đã triển khai mạnh dịch vụ quyền chọn, trong đó ACB là ngân hàng triển khai sớm nhất từ năm 2004, tiếp đến là Techcombank, VIB Bank, Sacombank, Eximbank...
Về đối tượng giao dịch thì quyền chọn vàng được áp dụng đối với các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu muốn bảo hiểm rủi ro sự biến động của vàng. Tuy nhiên thì khách hàng chỉ là người mua quyền chọn chứ không phải là người bán quyền chọn. Hiện nay, mỗi ngân hàng cung cấp quyền chọn vàng đều có quy định cụ thể và riêng biệt cho sản phẩm của mình chẳng hạn như quy định loại vàng giao dịch; đồng tiền giao dịch; thời gian giao dịch cũng như quy mô giao dịch tối thiểu của mỗi hợp đồng quyền chọn…
Thực tế cho thấy lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại các Ngân hàng hiện nay chủ yếu là các DN kinh doanh vàng, sử dụng quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động nhập vàng hay mua bán vàng của mình trên thị trường là chính nhưng có kết hợp với việc tìm kiếm cơ hội sinh lợi bằng sự am hiểu nhất định của mình về hình hình thị trường vàng thế giới và trong nước cũng như khả năng phân tích, đoán về biến động giá vàng tương lai.
Lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại ngân hàng ACB chủ yếu là các khách hàng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng cho các khoản thanh toán bằng vàng trong tương lai, nhiều nhất là phục vụ cho khoản đặt cọc vàng hay thanh toán vàng trong mua bán nhà đất và trả nợ vay cho nên họ chủ yếu giao dịch các quyền chọn mua và một ít quyền chọn bán có quy mô tương đối nhỏ. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại ACB là 50 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 7 ngày, tối đa là 180 ngày. Tuy nhiên lợi nhuận mang lại từ nghiệp vụ này tại ACB không cao vì khi ký hợp đồng với khách hàng, ACB đều phải thực hiện giao dịch đối ứng với các đối tác nước ngoài mà không duy trì trạng thái mở, do đó thu nhập nhận được chỉ là khoản chênh lệch giữa phí thu được của khách hàng và khoản phí mà ACB phải trả cho đối tác nước ngoài.
Đối với Eximbank, mặc dù giao dịch quyền chọn triển khai từ đầu năm 2006 số lượng hợp đồng được ký kết cũng không đáng kể. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại Eximbank là 100 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 3 ngày, tối đa là 365 ngày.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đạt được gì mà thị trường mong muốn. Về phía ngân hàng thì vẫn thiếu công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị chưa sâu rộng; chưa cung cấp hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu về cho khách hàng; quy mô hợp đồng chưa phù hợp…. Còn về phía khách hàng thì gặp khó khăn trong việc hạch toán kế toán vì chưa có hướng dẫn cụ thể đối với phí quyền chọn; chưa có kinh nghiệm sử dụng; còn tâm lý e ngại khi sử dụng vì chưa chưa hiểu… Như vậy, quyền chọn vàng vẫn còn khá mới mẻ, chưa đem lại kết quả kinh doanh như bản thân những lợi ích có được từ giao dịch này cho bản thân các ngân hàng cung cấp và ngay cả các NĐT tại thị trường Việt Nam.
2.2.4 Quyền chọn lãi suất.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hay đi vay trung hạn bằng USD hay Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các DN hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của Ngân hàng. Tổng số vốn gốc tối đa của tất cả c...
Download Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều khiển, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam miễn phí
Sau 10 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại, giá các loại chứng khoán biến động phức tạp khiến nhiều NĐT thua lỗ nặng, cầu chứng khoán suy giảm, thị trường trở nên buồn tẻ. Giải pháp cho vấn đề ngày như thế nào? Có biện pháp gì để bảo vệ NĐT khi giá chứng khoán liên tục giảm hay giảm đột biến?
Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá mua chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ được lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới. Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hay tạo lợi nhuận. Các quyền chọn chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu tư hay để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng giây từng phút thì việc nắm trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
00 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).. Theo công văn này, NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch… những quy định này là cơ sở để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ tại các NHTM khác dưới sự cho phép của NHNN. Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8 triệu USD-100.000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn quy định giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank, GPbank cũng tham gia nghiệp vụ này.Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.
Tuy nhiên dịch vụ quyền chọn tiền đồng có đặc thù là ngân hàng không thể tái bảo hiểm sản phẩm của mình ở một đơn vị thứ 3, vì vậy rủi ro đối với bên bán là rất lớn. Điều này khiến các Ngân hàng phải tự tính toán cân đối thu nhập, chi phí và tự bảo hiểm bằng đồng tiền nào cho phù hợp. Dịch vụ này cũng chỉ tập trung chủ yếu phục vụ các DN kinh doanh XNK và phần lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, quy mô hợp đồng tối thiểu đối với ngoại tệ khác là 100.000 USD hay tương đương là quá cao. Đây là một bất lợi khiến các cá nhân và DN vừa và nhỏ có nhu cầu bảo hiểm tỷ giá cho một lượng ngoại tệ nhỏ hơn không thể tham gia nghiệp vụ này.
Thị trường tiền tệ Việt Nam chưa gặp những biến động lớn cho nên các DN chưa quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro. Họ quan niệm rằng tỷ giá thì có Nhà nước ổn định; lãi suất thì Ngân hàng Trung ương cũng không cho biến động mạnh và vì thế họ an tâm kinh doanh mà bỏ qua các chiếc lược phòng ngừa rủi ro tiền tệ.
Mức phí quyền chọn mà các NHTM đưa ra cho DN thời gian qua còn cao, chưa hợp lý và không mang tính khuyến khích sử dụng. Vì thế, các DN tính toán không có lợi nên không muốn tham gia vào nghiệp vụ này, vì tham gia thì sẽ mất một khoản tiền trước mắt (khoản phí) mà không thấy rủi ro gì đáng kể. Vì vậy mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân hàng không đáng kể.
Tuy nhiên đến tháng 03 năm 2009 để ổn định thị trường ngoại hối có diễn biến phức tạp Thống đốc NHNN đã ban hành văn bản số 1820/NHNN-QLNH yêu cầu NHTM dừng thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng kể từ 23/3/2009.
2.2.3 Quyền chọn vàng.
Các Ngân hàng đã đưa ra sản phẩm quyền chọn từ cuối năm 2004 như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn tiền đồng, nhưng chưa có quyền chọn vàng. Do trong năm 2005, giá vàng liên tục biến động khiến các DN kinh doanh vàng bạc đá quý mới thực sự quan tâm. Vì thế, các NHTM, sau khi trình và được phép của NHNN, đã phải rất tích cực chuẩn bị cả về nhân lực, vật lực lẫn đào tạo chuyên môn…để có thể đưa ra thị trường sản phẩm quyền chọn Vàng phục vụ khách hàng. Ngoài 3 ngân hàng lớn thực hiện quyền bằng vàng là Vietcombank, Agribank và BIDV thì một số NHTM cổ phần đã triển khai mạnh dịch vụ quyền chọn, trong đó ACB là ngân hàng triển khai sớm nhất từ năm 2004, tiếp đến là Techcombank, VIB Bank, Sacombank, Eximbank...
Về đối tượng giao dịch thì quyền chọn vàng được áp dụng đối với các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu muốn bảo hiểm rủi ro sự biến động của vàng. Tuy nhiên thì khách hàng chỉ là người mua quyền chọn chứ không phải là người bán quyền chọn. Hiện nay, mỗi ngân hàng cung cấp quyền chọn vàng đều có quy định cụ thể và riêng biệt cho sản phẩm của mình chẳng hạn như quy định loại vàng giao dịch; đồng tiền giao dịch; thời gian giao dịch cũng như quy mô giao dịch tối thiểu của mỗi hợp đồng quyền chọn…
Thực tế cho thấy lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại các Ngân hàng hiện nay chủ yếu là các DN kinh doanh vàng, sử dụng quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động nhập vàng hay mua bán vàng của mình trên thị trường là chính nhưng có kết hợp với việc tìm kiếm cơ hội sinh lợi bằng sự am hiểu nhất định của mình về hình hình thị trường vàng thế giới và trong nước cũng như khả năng phân tích, đoán về biến động giá vàng tương lai.
Lượng khách hàng giao dịch quyền chọn vàng tại ngân hàng ACB chủ yếu là các khách hàng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng cho các khoản thanh toán bằng vàng trong tương lai, nhiều nhất là phục vụ cho khoản đặt cọc vàng hay thanh toán vàng trong mua bán nhà đất và trả nợ vay cho nên họ chủ yếu giao dịch các quyền chọn mua và một ít quyền chọn bán có quy mô tương đối nhỏ. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại ACB là 50 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 7 ngày, tối đa là 180 ngày. Tuy nhiên lợi nhuận mang lại từ nghiệp vụ này tại ACB không cao vì khi ký hợp đồng với khách hàng, ACB đều phải thực hiện giao dịch đối ứng với các đối tác nước ngoài mà không duy trì trạng thái mở, do đó thu nhập nhận được chỉ là khoản chênh lệch giữa phí thu được của khách hàng và khoản phí mà ACB phải trả cho đối tác nước ngoài.
Đối với Eximbank, mặc dù giao dịch quyền chọn triển khai từ đầu năm 2006 số lượng hợp đồng được ký kết cũng không đáng kể. Hiện nay quy mô giao dịch tối thiểu đối với một hợp đồng quyền chọn tại Eximbank là 100 lượng, thời hạn giao dịch tối thiểu là 3 ngày, tối đa là 365 ngày.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đạt được gì mà thị trường mong muốn. Về phía ngân hàng thì vẫn thiếu công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị chưa sâu rộng; chưa cung cấp hướng dẫn chi tiết và dễ hiểu về cho khách hàng; quy mô hợp đồng chưa phù hợp…. Còn về phía khách hàng thì gặp khó khăn trong việc hạch toán kế toán vì chưa có hướng dẫn cụ thể đối với phí quyền chọn; chưa có kinh nghiệm sử dụng; còn tâm lý e ngại khi sử dụng vì chưa chưa hiểu… Như vậy, quyền chọn vàng vẫn còn khá mới mẻ, chưa đem lại kết quả kinh doanh như bản thân những lợi ích có được từ giao dịch này cho bản thân các ngân hàng cung cấp và ngay cả các NĐT tại thị trường Việt Nam.
2.2.4 Quyền chọn lãi suất.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hay đi vay trung hạn bằng USD hay Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các DN hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của Ngân hàng. Tổng số vốn gốc tối đa của tất cả c...