Download Quyền khiếu nại, khiếu kiện khi nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư miễn phí
Văn bản pháp quy gần đây nhất của Chính phủ về hướng dẫn các vấn đề có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Theo Nghị định này thì “việc giải quyết khiếu nại về giá đất bồi thường, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hay quyết định cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện theo Điều 138 Luật Đất đai, Điều 63, Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và quy định giải quyết khiếu nại tại Nghị định số 136/2006/NĐ-CP7 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật KNTC”.
Điều này cho thấy, trong quá trình áp dụng, các chủ thể hành pháp đã viện dẫn Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành trước khi viện dẫn Luật KNTC (và điều này cũng đồng nghĩa với việc Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được viện dẫn sau cùng). Trong khi đó, các văn bản đất đai có xu hướng thu hẹp quyền của người khiếu nại, khiếu kiện vì vậy, khi áp dụng theo các văn bản này, tức là đã thu hẹp quyền khiếu nại, khiếu kiện mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã quy định, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Quyền khiếu nại, khiếu kiện khi nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cưSố vụ việc khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến các nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất và các tài sản gắn liền với đất luôn chiếm một tỷ lệ cao trong những năm gần đây. Trong khi đó, những quy định của pháp luật về khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có nhiều chỗ bất cập, không thống nhất. Cụ thể là pháp luật chuyên ngành (Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn) không thống nhất với Luật Khiếu nại, tố cáo về thủ tục giải quyết khiếu nại; pháp luật về tố tụng (Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính) không thống nhất với pháp luật tiền tố tụng (Luật Khiếu nại, tố cáo)… Bài viết phân tích một số quy định của pháp luật liên quan quyền khiếu nại, khiếu kiện trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1. Cơ sở hiến định và pháp định của quyền khiếu nại, khiếu kiện
Khiếu nại là một quyền hiến định, được quy định tại Điều 74 của Hiến pháp năm 1992. Quyền này được quy định chi tiết tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 (Luật KNTC). Có thể nói, quyền khiếu nại ở Việt Nam được xây dựng từ khá sớm1 và khá quen thuộc trong đời sống pháp lý của người Việt Nam.
Khác với quyền khiếu nại, quyền khiếu kiện được quy định muộn hơn, gắn liền với sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung 1998 và 2006 (Pháp lệnh TTGQCVAHC). Ở Việt Nam, Hiến pháp không đề cập đến quyền khiếu kiện. Văn bản quy phạm pháp luật cao nhất ghi nhận và hướng dẫn quyền này là Pháp lệnh TTGQCVAHC. Điều này cho thấy, chưa có sự thống nhất trong việc nhìn nhận hai loại quyền này trong khi nó cùng song hành bảo vệ lợi ích người dân và hướng đến việc nâng cao hiệu quả của công tác QLNN.
So với khiếu kiện, việc giải quyết khiếu nại được thực hiện bởi những chủ thể thừa hành hành chính (cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) đã ban hành quyết định hành chính (QĐHC), thực hiện hành vi hành chính (HVHC) hay cấp trên trực tiếp của các chủ thể này). Vì vậy, ưu điểm của khiếu nại là ngay khi bắt tay vào giải quyết khiếu nại, vụ việc đã được nắm rất rõ, rất chi tiết và có thể được giải quyết nhanh chóng. Nếu được tận dụng, sẽ tiết kiệm được phần nào thời gian, công sức, chi phí xem xét từng tình tiết của vụ việc. Tuy nhiên, việc giải quyết khiếu nại có thể dẫn đến chủ quan và định kiến khi xem xét lại vụ việc đã và đang quản lý, đồng thời với tâm lý e ngại việc công nhận QĐHC, HVHC của chính mình là không đúng, nên có thể có những hạn chế nhất định.
Trong khi đó, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện là thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân dân - chủ thể độc lập tương đối với cả hai bên: người khởi kiện (người dân) và người bị kiện (cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN). Với cơ chế giải quyết bởi Tòa án, chủ thể giải quyết khiếu kiện có phạm vi độc lập, không chịu định kiến bởi các lăng kính của các chủ thể quản lý nhà nước (QLNN) và vì vậy, có thể đưa ra một kết quả công minh. Tuy nhiên, do phải bắt đầu lại toàn bộ vụ việc từ yếu tố đầu tiên nên chủ thể giải quyết khiếu kiện có thể cần nhiều thời gian, công sức và chi phí. Mặt khác, do không là chủ thể trực tiếp quản lý nên chủ thể này có thể phải cần những cơ quan hỗ trợ về mặt kỹ thuật như: cơ quan giám định về thiệt hại trong thu hồi đất, đánh giá quỹ đất tái định cư…
2. Phạm vi của quyền khiếu nại, khiếu kiện nói chung
Mặc dù Hiến pháp quy định quyền khiếu nại có thể được thực hiện đối với “những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước” (Điều 74 Hiến pháp năm 1992), tuy nhiên, quyền này lại bị giới hạn trong Luật KNTC ở hai phạm vi: (i) phải là QĐHC cá biệt, tức là quyết định chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, được ban hành nhằm giải quyết những công việc cụ thể đối với những đối tượng xác định, có hiệu lực một lần theo vụ việc…và (ii) phải là HVHC cụ thể.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cá nhân, tổ chức không thể khiếu nại đối với các QĐHC quy phạm, QĐHC chủ đạo - những loại văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung, có tính định hướng và có phạm vi áp dụng rộng rãi.
Quyền khiếu kiện được xác định trong Pháp lệnh TTGQCVAHC là một quyền có phạm vi hẹp, hẹp hơn cả quyền khiếu nại. Thứ nhất, theo trình tự tiền tố tụng hiện hành, quyền khiếu kiện sẽ không được thực hiện nếu chưa qua khiếu nại lần đầu, tức là đã được giải quyết khiếu nại lần đầu mà vẫn không đồng ý hay hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định mà vẫn không được giải quyết (Điều 39 Luật KNTC). Điều này có thể hiểu, “cánh cổng” khiếu kiện nằm sau “cánh cổng” khiếu nại, và quyền khiếu kiện chỉ được thực hiện chỉ khi thuộc loại việc “đi qua được cánh cổng khiếu nại”. Thứ hai, nếu quyền khiếu nại được xác định chủ yếu theo hướng “mở” ở hai nội dung là QĐHC cá biệt và HVHC, thì quyền khiếu kiện được xác định theo hướng “đóng” ở 22 loại việc liệt kê tại Điều 11 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung2 năm 2006 (Pháp lệnh 1996 là 8 loại việc; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1998 là 10 loại việc). Như vậy sẽ có một số khiếu nại đã “hoàn thành xong” các trình tự về khiếu nại vẫn có thể không được thụ lý giải quyết khiếu kiện vì không thuộc một trong 22 loại việc mà Pháp lệnh hiện hành đã liệt kê. Thứ ba, ngoài hai “điều kiện cần” nêu trên, đối với một số loại QĐHC, HVHC, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2006 còn quy định các “điều kiện đủ” như: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng… trong các trường hợp sau đây:
- Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý và không tiếp tục khiếu nại đến UBND cấp tỉnh.
- Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó (Điều 2, khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh TTGQCVAHC)”.
Điều này có nghĩa là, trong lĩnh vực này, ngoài hai loại QĐHC, HVHC nêu trên, Tòa án sẽ không thụ lý. Tóm lại, có thể nói phạm vi của quyền khiếu kiện hành chính ở Việt Nam rất hẹp và được giới hạn “đóng” trong các loại việc mà văn bản hiện hành xác định.
3. Quyền khiếu nại, khiếu kiện trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Theo quy định của Luật KNTC, trình tự khiếu nại, khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Nếu không đ...