PeLan_KuAnh
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỞ BÀI
Thực hiện quá trình cải cách nền kinh tế, Việt Nam đã và đang từng ngày chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Qua mấy năm vận hành, các bộ phận thị trường chứng khoán Việt Nam đã tạo ra diện mạo mới cả về hàng hóa, tính đa dạng của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thị trường còn non trẻ, không tuân theo quy luật, mà tình trạng này được báo giới gọi là “thị trường chứng khoán Việt Nam lình xình”. Đồng thời, thị trường chứng khoán có chức năng là “kênh dẫn vốn cho nền kinh tế”. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bất kì một vấn đề nào liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán đều đem lại những ý nghĩa nhất định. Việc so sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán không chỉ đem lại những ý nghĩa chung mà nó còn đem lại những ý nghĩa riêng nhất định. Dưới đây, nhóm em xin đi trình bày cụ thể vấn đề.
NỘI DUNG
I.Một số vấn đề lý luận chung.
1.Một số vấn đề cơ bản về chứng khoán.
a.Khái niệm chứng khoán.
Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hay phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trên phương diện pháp lý.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hay phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hay dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hay chỉ số chứng khoán”.
b.Phân loại chứng khoán.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chứng khoán được phân thành nhiều loại. Cách phân loại thông dụng là dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, chứng khoán được chia thành:
Thứ nhất: Cổ phiếu: là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hay vốn của công ty cổ phần. Cổ phiếu gồm cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu phổ thông nhất tạo cho người nắm giữ các quyền lợi về kinh tế và quyền lực dựa trên nguyên tắc đối vốn. Mỗi cổ phiếu phổ thông có một phiếu biểu quyết và có thể trở thành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi: là một loại cổ phiếu có tính khác biệt với cổ phiếu phổ thông, loại này tạo cho người sở hữu một số quyền lợi cao hơn người sở hữu cổ phiếu phổ thông, đồng thời cũng phải chịu một số hạn chế khác.
Thứ hai: Trái phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hay bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu.
Thứ ba: Chứng chỉ quỹ đầu tư: là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hay các quỹ đầu tư phát hành xác nhận quyền lợi của nhà đầu tư đối với quỹ phát hành.
2.Kinh doanh chứng khoán.
Nói một cách khái quát, kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về kinh doanh chứng khoán cho chính mình và cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Theo quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Cụ thể:
Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng.
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hay bán chứng khoán cho chính mình.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hay mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hay hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán.
Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường, mỗi loại chủ thể kinh doanh chứng khoán được phép tiến hành những hoạt động kinh doanh khác nhau. Nổi bật lên trong số các chủ thể đó là công ty chứng khoán với hoạt động tự doanh chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán.
II.Những điểm giống và khác nhau giữa hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán.
1.Những điểm giống nhau.
a.Chủ thể
Chủ thể tiến hành hai hoạt động này đều là các pháp nhân, mà cụ thể là các doanh nghiệp nên chúng đều có những đặc điểm chung của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 21 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì chủ thể của hoạt động tự doanh chứng khoán chỉ có thể là công ty chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay tuy Luật chứng khoán không đưa ra định nghĩa về công ty chứng khoán song qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập, hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán và các quy định khác của pháp luật để thực hiện một, một số hay toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Qua định nghĩa trên có thể thấy: công ty chứng khoán tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Do đó, nó đều là các pháp nhân.
Công ty đầu tư chứng khoán là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà đầu tư và sử dụng số vốn góp đó để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Công ty đầu tư chứng khoán có thể huy động vốn thông qua việc tổ chức chào bán cổ phiếu riêng lẻ để thành lập công ty đầu tư chứng khoán phi đại chúng hay thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng để thành lập công ty đầu tư chứng khoán đại chúng. Do đó, có thể thấy công ty đầu tư chứng khoán luôn được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Do đó, nó cũng là một pháp nhân có tổ chức bộ máy hoàn chỉnh.
b.Chủ thể tiến hành hai hoạt động này có nhiều quyền và nghĩa vụ tương đồng.
Xét về bản chất, hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều là việc mua vào, bán ra các loại chứng khoán nên khi thực hiện các hoạt động này, cả công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đều có một số quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Với tư cách là bên mua chứng khoán: Quyền yêu cầu bên bán chứng khoán hay nhà môi giới chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán cho mình. Quyền năng này thường được thực hiện sau khi công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đã hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tiền mua chứng khoán cho người bán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc chuyển giao chứng khoán trước khi hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền mua chứng khoán. Đồng thời với quyền đó là nghĩa vụ thanh toán tiền mua chứng khoán cho bên bán.
Với tư cách là người bán chứng khoán: Nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán cho bên mua và quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền mua chứng khoán cho mình.
c.Cả hai hoạt động này đều được diễn ra trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng khoán. Tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán thực chất cũng là hoạt động công ty chứng khoán mua bán chứng khoán , giống như việc mua, bán chứng khoán của các công ty đầu tư chứng khoán. Do đó, cả hai hoạt động này đều phải được diễn ra trên thị trường chứng khoán.
d.Cả hai hoạt động này đều có chung một loại hàng hóa đặc biệt, đó là chứng khoán.
Hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều được thực hiện thông qua loại hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Tính đặc biệt của loại
- Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được mua, bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hay tốt hơn giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.
Các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán nên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực chứng khoáng và thị trường chứng khoán, tự doanh chứng khoán còn chịu sự chi phối của hàng loạt cơ chế, chính sách khác, đặc biệt là các chính sách tài chính liên quan như thuế, phí, lệ phí… các chính sách này sẽ tác động trực tiếp đến kết quả , hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp qua đó có tác động kích thích hay kìm hãm các hoạt động tự doanh chứng khoán pháp triển.
KẾT LUẬN
Ta thấy hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán thực chất cũng là hoạt động công ty chứng khoán mua bán chứng khoán, giống như việc mua, bán chứng khoán của các công ty đầu tư chứng khoán. Vì vậy, rất có thể hiểu nhầm hai hoạt động này là một nếu chỉ nhìn vào hoạt động cơ học diễn ra. Vì vậy, việc so sánh mà phần lớn là chỉ ra sự khác biệt giữa hai hoạt động này giúp nhận diện chúng được dễ dàng hơn.
Trên là bài viết cả nhóm em về so sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. Tất nhiên, dưới cái nhìn còn non trẻ nên không thể trình bày hoàn toàn thấu đáo được vấn đề, nhóm em mong sẽ nhận được những lời nhận xét, góp ý từ các thầy cô. Nhóm em xin trân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An nhân dân 2008;
2. Lê Thị Thu Huyền “Hoàn thiện pháp luật về quĩ đầu tư chứng khoán và công ti đầu tư chứng khoán ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học 2007;
3. Bùi Doãn Đức, “Pháp luật hợp đồng mua bán chứng khoán những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoá luận tốt nghiệp, 2004
4. Trần Thị Thanh Thảo “Pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty chứng khoán - thực trạng và phương hướng, giải pháp hoàn thiện” Luận văn thạc sĩ luật học”, 2001;
5. Đoàn Quốc Hùng, “Pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán - thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học;
6. Nguyễn Bảo Giang ,“Công ty chứng khoán theo pháp luật Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học, 2005;
7. Lê Anh Đức “Pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán thực trạng và hướng hoàn thiện “ Khoá luận tốt nghiệp, 2006;
8. TH.S Trần Vũ Hải “Một số vấn đề pháp lí về công ti đầu tư chứng khoán”, Tạp chí luật học số 8/2006.
MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
NỘI DUNG 1
I.Một số vấn đề lý luận chung. 1
1.Một số vấn đề cơ bản về chứng khoán. 1
a.Khái niệm chứng khoán. 1
b.Phân loại chứng khoán. 1
2.Kinh doanh chứng khoán. 2
II.Những điểm giống và khác nhau giữa hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. 3
1.Những điểm giống nhau. 3
a.Chủ thể 3
b.Chủ thể tiến hành hai hoạt động này có nhiều quyền và nghĩa vụ tương đồng. 4
c.Cả hai hoạt động này đều được diễn ra trên thị trường chứng khoán. 4
d.Cả hai hoạt động này đều có chung một loại hàng hóa đặc biệt, đó là chứng khoán. 4
e.Cả hai hoạt động này đều được các chủ thể tiến hành nhằm mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. 5
f.Ngoài ra, hai hoạt động tự doanh chứng khoán và mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán còn một số đặc điểm chung như: 5
2.Những điểm khác nhau. 5
a.Về chủ thể tiến hành. 6
b.Về điều kiện để tiến hành. 6
c.Về cơ sở để tiến hành hoạt động. 7
d.Về mục đích tiến hành hoạt động. 7
e.Về thời gian tiến hành hoạt động mua, bán chứng khoán. 8
f. Về các hạn chế đối với hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. 8
III.Ý nghĩa của việc so sách hoạt động tự doanh chứng khoán và mua bán chứng khoán của công ty chứng khoán. 9
1.Giúp nhà đầu tư lựa chọn loại hình hoạt động phù hợp 9
2.Giúp nhà nước quản lý thị trường chứng khoán hiệu quả 10
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỞ BÀI
Thực hiện quá trình cải cách nền kinh tế, Việt Nam đã và đang từng ngày chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Qua mấy năm vận hành, các bộ phận thị trường chứng khoán Việt Nam đã tạo ra diện mạo mới cả về hàng hóa, tính đa dạng của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thị trường còn non trẻ, không tuân theo quy luật, mà tình trạng này được báo giới gọi là “thị trường chứng khoán Việt Nam lình xình”. Đồng thời, thị trường chứng khoán có chức năng là “kênh dẫn vốn cho nền kinh tế”. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bất kì một vấn đề nào liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán đều đem lại những ý nghĩa nhất định. Việc so sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán không chỉ đem lại những ý nghĩa chung mà nó còn đem lại những ý nghĩa riêng nhất định. Dưới đây, nhóm em xin đi trình bày cụ thể vấn đề.
NỘI DUNG
I.Một số vấn đề lý luận chung.
1.Một số vấn đề cơ bản về chứng khoán.
a.Khái niệm chứng khoán.
Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hay phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trên phương diện pháp lý.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hay phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hay dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hay chỉ số chứng khoán”.
b.Phân loại chứng khoán.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chứng khoán được phân thành nhiều loại. Cách phân loại thông dụng là dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, chứng khoán được chia thành:
Thứ nhất: Cổ phiếu: là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hay vốn của công ty cổ phần. Cổ phiếu gồm cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu phổ thông nhất tạo cho người nắm giữ các quyền lợi về kinh tế và quyền lực dựa trên nguyên tắc đối vốn. Mỗi cổ phiếu phổ thông có một phiếu biểu quyết và có thể trở thành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi: là một loại cổ phiếu có tính khác biệt với cổ phiếu phổ thông, loại này tạo cho người sở hữu một số quyền lợi cao hơn người sở hữu cổ phiếu phổ thông, đồng thời cũng phải chịu một số hạn chế khác.
Thứ hai: Trái phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hay bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu.
Thứ ba: Chứng chỉ quỹ đầu tư: là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hay các quỹ đầu tư phát hành xác nhận quyền lợi của nhà đầu tư đối với quỹ phát hành.
2.Kinh doanh chứng khoán.
Nói một cách khái quát, kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về kinh doanh chứng khoán cho chính mình và cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Theo quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Cụ thể:
Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng.
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hay bán chứng khoán cho chính mình.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hay mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hay hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán.
Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường, mỗi loại chủ thể kinh doanh chứng khoán được phép tiến hành những hoạt động kinh doanh khác nhau. Nổi bật lên trong số các chủ thể đó là công ty chứng khoán với hoạt động tự doanh chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán.
II.Những điểm giống và khác nhau giữa hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán.
1.Những điểm giống nhau.
a.Chủ thể
Chủ thể tiến hành hai hoạt động này đều là các pháp nhân, mà cụ thể là các doanh nghiệp nên chúng đều có những đặc điểm chung của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 21 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì chủ thể của hoạt động tự doanh chứng khoán chỉ có thể là công ty chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay tuy Luật chứng khoán không đưa ra định nghĩa về công ty chứng khoán song qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập, hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán và các quy định khác của pháp luật để thực hiện một, một số hay toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Qua định nghĩa trên có thể thấy: công ty chứng khoán tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Do đó, nó đều là các pháp nhân.
Công ty đầu tư chứng khoán là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà đầu tư và sử dụng số vốn góp đó để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Công ty đầu tư chứng khoán có thể huy động vốn thông qua việc tổ chức chào bán cổ phiếu riêng lẻ để thành lập công ty đầu tư chứng khoán phi đại chúng hay thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng để thành lập công ty đầu tư chứng khoán đại chúng. Do đó, có thể thấy công ty đầu tư chứng khoán luôn được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Do đó, nó cũng là một pháp nhân có tổ chức bộ máy hoàn chỉnh.
b.Chủ thể tiến hành hai hoạt động này có nhiều quyền và nghĩa vụ tương đồng.
Xét về bản chất, hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều là việc mua vào, bán ra các loại chứng khoán nên khi thực hiện các hoạt động này, cả công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đều có một số quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Với tư cách là bên mua chứng khoán: Quyền yêu cầu bên bán chứng khoán hay nhà môi giới chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán cho mình. Quyền năng này thường được thực hiện sau khi công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đã hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tiền mua chứng khoán cho người bán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc chuyển giao chứng khoán trước khi hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền mua chứng khoán. Đồng thời với quyền đó là nghĩa vụ thanh toán tiền mua chứng khoán cho bên bán.
Với tư cách là người bán chứng khoán: Nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán cho bên mua và quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền mua chứng khoán cho mình.
c.Cả hai hoạt động này đều được diễn ra trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng khoán. Tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán thực chất cũng là hoạt động công ty chứng khoán mua bán chứng khoán , giống như việc mua, bán chứng khoán của các công ty đầu tư chứng khoán. Do đó, cả hai hoạt động này đều phải được diễn ra trên thị trường chứng khoán.
d.Cả hai hoạt động này đều có chung một loại hàng hóa đặc biệt, đó là chứng khoán.
Hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều được thực hiện thông qua loại hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Tính đặc biệt của loại
- Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được mua, bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hay tốt hơn giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.
Các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán nên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực chứng khoáng và thị trường chứng khoán, tự doanh chứng khoán còn chịu sự chi phối của hàng loạt cơ chế, chính sách khác, đặc biệt là các chính sách tài chính liên quan như thuế, phí, lệ phí… các chính sách này sẽ tác động trực tiếp đến kết quả , hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp qua đó có tác động kích thích hay kìm hãm các hoạt động tự doanh chứng khoán pháp triển.
KẾT LUẬN
Ta thấy hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán thực chất cũng là hoạt động công ty chứng khoán mua bán chứng khoán, giống như việc mua, bán chứng khoán của các công ty đầu tư chứng khoán. Vì vậy, rất có thể hiểu nhầm hai hoạt động này là một nếu chỉ nhìn vào hoạt động cơ học diễn ra. Vì vậy, việc so sánh mà phần lớn là chỉ ra sự khác biệt giữa hai hoạt động này giúp nhận diện chúng được dễ dàng hơn.
Trên là bài viết cả nhóm em về so sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. Tất nhiên, dưới cái nhìn còn non trẻ nên không thể trình bày hoàn toàn thấu đáo được vấn đề, nhóm em mong sẽ nhận được những lời nhận xét, góp ý từ các thầy cô. Nhóm em xin trân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An nhân dân 2008;
2. Lê Thị Thu Huyền “Hoàn thiện pháp luật về quĩ đầu tư chứng khoán và công ti đầu tư chứng khoán ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học 2007;
3. Bùi Doãn Đức, “Pháp luật hợp đồng mua bán chứng khoán những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoá luận tốt nghiệp, 2004
4. Trần Thị Thanh Thảo “Pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty chứng khoán - thực trạng và phương hướng, giải pháp hoàn thiện” Luận văn thạc sĩ luật học”, 2001;
5. Đoàn Quốc Hùng, “Pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán - thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học;
6. Nguyễn Bảo Giang ,“Công ty chứng khoán theo pháp luật Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học, 2005;
7. Lê Anh Đức “Pháp luật Việt Nam về công ty chứng khoán thực trạng và hướng hoàn thiện “ Khoá luận tốt nghiệp, 2006;
8. TH.S Trần Vũ Hải “Một số vấn đề pháp lí về công ti đầu tư chứng khoán”, Tạp chí luật học số 8/2006.
MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
NỘI DUNG 1
I.Một số vấn đề lý luận chung. 1
1.Một số vấn đề cơ bản về chứng khoán. 1
a.Khái niệm chứng khoán. 1
b.Phân loại chứng khoán. 1
2.Kinh doanh chứng khoán. 2
II.Những điểm giống và khác nhau giữa hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. 3
1.Những điểm giống nhau. 3
a.Chủ thể 3
b.Chủ thể tiến hành hai hoạt động này có nhiều quyền và nghĩa vụ tương đồng. 4
c.Cả hai hoạt động này đều được diễn ra trên thị trường chứng khoán. 4
d.Cả hai hoạt động này đều có chung một loại hàng hóa đặc biệt, đó là chứng khoán. 4
e.Cả hai hoạt động này đều được các chủ thể tiến hành nhằm mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. 5
f.Ngoài ra, hai hoạt động tự doanh chứng khoán và mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán còn một số đặc điểm chung như: 5
2.Những điểm khác nhau. 5
a.Về chủ thể tiến hành. 6
b.Về điều kiện để tiến hành. 6
c.Về cơ sở để tiến hành hoạt động. 7
d.Về mục đích tiến hành hoạt động. 7
e.Về thời gian tiến hành hoạt động mua, bán chứng khoán. 8
f. Về các hạn chế đối với hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán. 8
III.Ý nghĩa của việc so sách hoạt động tự doanh chứng khoán và mua bán chứng khoán của công ty chứng khoán. 9
1.Giúp nhà đầu tư lựa chọn loại hình hoạt động phù hợp 9
2.Giúp nhà nước quản lý thị trường chứng khoán hiệu quả 10
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: