happy200576
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh tế hiện nay
SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY
Phạm Nguyễn Ngọc Anh – Học viện chính trị
MỞ ĐẦU
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy, bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc, thì đồng thời đều là quá trình tái sản xuất. Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại đã có nhiều nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Tiêu biểu phải kể đến đó là nhà kinh tế người Pháp F.Quesnay với “biểu kinh tế F.Quesnay” nổi tiếng; Adam.Smith cũng để lại trong lịch sử tư tưởng kinh tế những đóng góp nhất định về tái sản xuất;David Ricardo với “lý thuyết thực hiện”; đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp J.Sismondi người đã đưa ra những lời thông báo về sản xuất thừa và khủng hoảng kinh tế…Tuy nhiên người đã tạo nên bước ngoặt cách mạng, khoa học trong kinh tế chính trị nói chung và trong lý luận về tái sản xuất nói riêng không ai khác đó chính là Các Mác. Nhà lý luận kiệt xuất của nhân loại đã có những phát kiến và dự báo thiên tài với những lập luận sắc bén, khoa học, Người đã chứng minh quá trình khủng hoảng kinh tế dưới Chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan, từ đó vạch ra bản chất và sự tất yếu diệt vong của Chủ nghĩa tư bản – điều mà các nhà lý luận nói chung và các nhà kinh tế chính trị nói riêng trước đó không làm được, hay không thoát ra được gánh nặng giai cấp của mình.
Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?”. Thật ra câu hỏi của nữ hoàng Anh cũng là câu hỏi của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhân loại vừa mới trải qua những ngày đen tối có tính chu kỳ.
Một lần nữa nghiên cứu lý luận tái sản xuất trong lịch sử tư tưởng kinh tế để có cái nhìn khách quan, toàn diện với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với chút ít tham vọng đó tác giả chọn chủ đề : “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh tế hiện nay” làm nội dung thu hoạch môn học của mình.
NỘI DUNG
Như đã trình bày, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng kinh tế đã có nhiều trường phái, nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Đây chính là những tiền đề về mặt lý luận cho Các Mác kế thừa và phát triển học thuyết về tái sản xuất xã hội của mình.
Sự phát triển kinh tế vào nửa cuối thế kỷ XVIII ở Châu Âu được chuyển dần trọng tâm sang sản xuất, vai trò của thương nghiệp bị giảm sút, các lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương bị mất sức thuyết phục, làm xuất hiện cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương. Trong điều kiện đó, ở nước Anh ra đời kinh tế chính trị tư sản cổ điển, còn ở nước Pháp ra đời trường phái trọng nông hay chủ nghĩa trọng nông, thường gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Pháp. Đại biểu tiêu biểu cho trường phái trọng nông của Pháp đó chính là F.Quesnay – người đã đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nên lý luận về tái sản xuất. Học thuyết này được trình bày tập trung trong “Biểu kinh tế”(1752) và “Phân tích biểu kinh tế” (1766). Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế chính trị F.Quesnay đã phân tích quá trình tái sản xuất tư bản xã hội trong một sơ đồ khái quát, giản đơn nhưng có sức tổng hợp cao, vô số những hành vi lưu thông cá biệt được tổng hợp lại thành một sự vận động phổ biến (quy luật) có tính chất xã hội. Các Mác đánh giá rất cao “Biểu kinh tế”, coi đó là tư tưởng thiên tài
Để nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội F.Quesnay đã áp dụng khá thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học. “Biểu kinh tế” được nghiên cứu trên những giả định sau:
- Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, bởi như Mác phân tích sau này nghiên cứu tái sản xuất giản đơn là nghiên cứu yếu tố hiện thực của tích lũy, của tái sản xật mở rộng
- Lấy tư bản hàng hóa làm điểm xuất phát, sau này Các Mác cũng đã làm như vậy
- Không tính đến biến động về giá cả ( giá cả bằng giá trị)
- Không tính đến ngoại thương, đây là giả định cần thiết mà sau này J.Sismondi và phái dân túy Nga đã không hiểu khi phân tích lý luận tái sản xuất
- Tái sản xuất là quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật và giá trị. Quá trình lưu thông sản phẩm gắn với lưu thông tiền tệ, tiền tệ trở về điểm xuất phát ban đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất.
- Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi giữa ba giai cấp: Giai cấp sở hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất
- Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm 7 tỷ Frăng, trong đó 5 tỷ là sản phẩm nông nghiệp, 2 tỷ là sản phẩm của giai cấp không sản xuất. Trong 5 tỷ sản phẩm nông nghiệp có 1 tỷ để bù đắp tư bản ứng trước đầu tiên, 2 tỷ để bù đắp khoản ứng ra hằng năm, 2 tỷ sản phẩm thuần túy nộp cho giai cấp sở hữu )
- Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp có ( 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật liệu, 1 tỷ bù đắp tư liệu tiêu dùng)
- Để lưu thông 7 tỷ sản phẩm trên, giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền mặt với tư cách là tiền tô để trả cho giai cấp sở hữu
“ Biểu kinh tế” của F.Quesnay phân tích quá trình vận động của tổng sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn được thể hiện thông qua 5 hành vi:
+ Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô để mua nông phẩm của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ nông phẩm ra khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu
+ Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô còn lại để mua một tỷ hàng công nghệ của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ trong hai tỷ sản phẩm công nghiệp đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu.
+ Hành vi 3: Sau khi nhận một tỷ tiền của giai cấp sở hữu, giai cấp không sản xuất đem tiến đó mua tư liệu sinh hoạt ( nông phẩm) của giai cấp sản xuất. Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được 2/5 số sản phẩm của mình.
+ Hành vi 4: Giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền vừa thu được để mua TLSX của giai cấp không sản xuất, vậy là giai cấp không sản xuất đã thực hiện xong hai tỷ công nghệ phẩm
+ Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền vừa nhận được để mua nguyên liệu của giai cấp sản xuất.
Kết quả 5 hành vi trên là giai cấp sản xuất đã bán được 3 tỷ nông phẩm, 2 tỷ còn lại dùng để bù đắp chi phí hằng năm( tư bản lưu động) và thu về được 2 tỷ tiền mặt để trả cho giai cấp sở hữu với tư cách tiền tô. Và như vậy quá trình tái sản xuất năm sau đã đầy đủ các yếu tố để diễn ra một cách trôi chảy…
“Biểu kinh tế” được đánh giá là một trong những cống hiến to lớn đối với lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại. khi nhận xét về “Biểu kinh tế” C.Mác đã khẳng định những công lao to lớn của F.Quesnay đó là:
- Đã sử dụng khá thành thạo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đã đưa ra những giả định cơ bản là đúng vì chỉ trên cơ sở những giả định đó mới nghiên cứu quá trình tái sản xuất tư bản xã hội
- Đã phân tích sự vận động của tổng sản phẩm xã hội trên cả hai mặt giá trị và hiện vật, nghiên cứu sự vận động của sản phẩm kết hợp với sự vận động ngược chiều của tiền tệ.
- Phân tích sự lưu thông tiền tệ phải theo quy luật tiền bỏ vào lưu thông phải quay về điểm xuất phát ban đầu, vì nếu tiền không quay về điểm xuất phát ban đầu thì quá trình tái sản xuất sẽ không diễn ra
Mặc dù có những đóng góp to lớn cho sư phát triển của khoa học kinh tế song “Biểu kinh tế” của F.Quesnay cũng còn bộc lộ một số hạn chế :
- Gán cho giai cấp sở hữu một chức năng kinh tế là tạo ra cú huých đầu tiên để quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội được tiến hành( dùng tiền tô để mua hàng của giai cấp không sản xuất và sản xuất)
- Phân chia xã hội thành ba giai cấp trên cơ sở lý luận của sản phẩm thuần túy là không đúng. Ông cho rằng chỉ có lĩnh vực nông nghiêp là lĩnh vực sản xuất còn các lĩnh vực khác là lĩnh vực không sản xuất. Khái niệm giai cấp không sản xuất của ông rất tầm thường và không khoa học. Ông cũng cho rằng toàn bộ sản phẩm thuần túy tiêu dùng hết nên không thể tái sản xuất mở rộng được. Điều này gián tiếp F.Quesnay cho rằng dưới CNTB không có khủng hoảng kinh tế, và như thế CNTB tồn tại vĩnh viễn như là xã hội cuối cùng trong lịch sử. Một cái nhìn thiển cận, bảo thủ trì trệ của chủ nghĩa trong nông nói chung và của F.Quesnay nói riêng.
- Không thấy được sự trao đổi trong nội bộ ngành công nghiệp, công nghiệp không tiêu dùng sản phẩm của mình cũng như không bù đắp chi phí tư liệu sản xuất của mình. Do vậy, họ không thể tái sản xuất.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế song “ Biểu kinh tế” được coi là khởi thủy của học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội mà sau này C.Mác tiếp tục nghiên cứu phát triển. Cũng trên cơ sở học thuyết tái sản xuất của mình chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định rõ những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ ra sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển khác cung khá nổi tiếng với lý thuyết về bàn tay vô hình đó chính là Adam Smith (1723-1790). Ông cũng đã dề cập đến lý luận về tái sản xuất. Adam Smith một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Các.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của Adam Smith đó là phương pháp hai mặt: Một mặt, Adam Smith đi sâu tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng, quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô tả , liệt kê, thuất lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bề ngoài của đời sống kinh tế và do đó cũng thường dẫn đến những kết luận phi lý tầm thường. Hai phương pháp này của Adam Smith luôn sống bên nhau, quyện chặt vào nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Phương pháp luận có tính hai mặt vừa khoa học, vừa tầm thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
Vế lý luận tái sản xuất, Adam Smith dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao động để xây dựng lý luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hóa bao gồm các thu nhập: tiền lương, lợi nhuận. địa tô. Theo ông tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào...tổng giá trị trao đổi hay giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ phận đó”. Như vậy tổng giá trị của hàng hóa chỉ có V+m, chỉ bằng giá trị mới sáng tạo ra, còn bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản xuất đã bị Adam Smith loại ra khỏi giá trị của hàng hóa. Ông coi giá trị của TLSX nằm trong tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Sai lầm của Adam Smith là ông đã lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm với giá trị mới sáng tạo ra; ông không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, không thấy được sự dịch chuyển giá trị cũ và sự sáng tạo ra giá trị mới. Adam Smith đã đã vấp phải vấn đề cần phân biệt trong lý luận, đó là hai hình thức lao động, một thứ cung cấp vật phẩm tiêu dùng, còn một thứ cung cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng (máy móc, công cụ). Lê nin cho rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. Như vậy Adam Smith đã cò một bước tiến dài so với những người trước ông. Ở ông đã có mầm móng thiên tài về sự phân chia nền sản xuất thành hai khu vực. Chính C.Mác đã bắt gặp “gợi ý” của Adam Smith và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản phẩm xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng Các Mác đánh giá cao Adam Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích lũy thì phải dành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận điểm này của Adam Smith nói rõ nguồn gốc của tích lũy tư bản là lao động. nhưng ông đã phạm sai lầm cho rằng việc tích lũy tư bản chỉ là việc biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản bất biến phụ thêm.
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith đã đề cập đến sản phẩm – chia làm hai nhóm TLSX và TLTD, giá trị sản phẩm gốc gồm có C+V+m phân chia nền sản xuất xã hội hai khu vực nhưng lí giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này phải chờ đến Mác mới giải quyết được. Có thể nói công lao to lớn nhất của Adam Smith là đaã đưa khoa học kinh tế chính trị thành một hệ thống.
David Ricardo là một đại biểu kiệt xuất của khoa kinh tế chính trị tư sản. Các Mác coi ông là người đã hoàn thành lý luận của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Ông là nhà tiền bối lớn nhất của Mác.
David Ricardo sống trong thời kỳ hoàn thành cách mạng công nghiệp ở Anh. Đó chính là điều kiện khách quan làm cho việc nghiên cứu của ông vượt qua được giới hạn mà AdamSmith dừng lại. Thế giới quan của ông có tính duy vật, tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông là chủ nghĩa duy vật máy móc. Là tư tưởng gia của giai cấp tư sản công nghiệp, David Ricardo coi khát vọng tăng thu nhập của giai cấp tư sản là một tiêu chuẩn kinh tế (ông xuất thân từ một người buôn chứng khoán), ông ít quan tâm đến lợi ích và vận mệnh của giai cấp vô sản và cho rằng cách sản xuất cách sản xuất tư bản chủ nghĩa là cách có ợi nhát để tạo ra của cải. Ông đã có những giả định đúng, xem tiêu dùng là do sản xuất quyết định, muốn tái sản xuất mở rộng thì phải làm cho sản xuất vượt quá tiêu dùng. Sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị trường
Theo ông cách sản xuất tư bản chủ nghĩa có hai mâu thuẫn chi phối đó là: tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm trong quá trình tích lũy tư bản và mâu thuẫn về kinh tế giữa các giai cấp trong xã hội. Ông không nhận thấy những mâu thuẫn khác bắt nguồn từ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. David Ricardo phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, ông khẳng định nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng phổ biến, vì lượng cầu thường là những lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng cầu đó được củng cố thêm bằng lượng cung hàng hóa và “ sản phẩm bao giờ cũng được mua bằng sản phẩm hay bằng những sự phục vụ, tiền chỉ làm thước đo khi thực hiện sự trao đổi đó”. Ông chỉ thừa nhận khủng hoảng sản xuất thừa cá biệt loại sản phẩm này hay loại sản phẩm kia, nhưng chủ nghĩa tư bản có thể điều chỉnh được mất cân đối chỉ là tạm thời.
Lý luận về thực hiện tổng sản phẩm xã hội của David Ricardo là điểm yếu nhất trong học thuyết kinh tế của ông. Ông chưa tiến lên một bước nào so với các nhà kinh tế trước đó. Ông mất năm 1823 nên không được chứng kiến cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên của chủ nghĩa tư bản diễn ra năm 1825. Mác viết “lịch sử có thể tha thứ cho ông”
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi đáng kể về kinh tế xã hội ở các nước tư bản Tây Âu. Giai cấp tư sản và vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản. Sản xuất bằng máy móc ra đời, làm cho sự phụ thuộc của công nhân vào nhà tư bản từ hình thức trở thành thực tế. Cạnh tranh vô chính phủ, phân hóa giai cấp, sự bần cùng hóa và thất nghiệp của giai cấp vô sản ngày càng tăng. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản xuất hiện mà đại biểu tiêu biểu phải kể đến đó là S.Sismondi. Mác coi J.Sismondi là đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp.
J.Sismondi cho rằng mục đích của sản xuất là tiêu dùng: sản xuất phải phù hợp với thu nhập và thu nhập phải phù hợp với tiêu dùng chính vì vậy sản xuất phải phù hợp với tiêu dùng; nếu sản xuất vượt quá tiêu dùng (tiêu dùng không đầy đủ) thì một bộ phận hàng hóa sẽ không thực hiện được giá trị nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Khác với quan điểm của Ricardo ông cho rằng khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan chứ không phải cục bộ ngẫu nhiên. Chính vì vậy J.Sismondi đã đi tìm nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Ông đưa ra tiền đề lý luận, tiêu dùng đóng vai trò quyết định sản xuất, nhu cầu quyết định sản xuất, sản xuất tư bản chủ nghĩa tách rời nhu cầu vì sản xuất phụ thuộc động cơ thu lợi nhuận tối đa, vì sự phát triển của công nghiệp cơ khí. Từ đó ông khẳng định, nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản càng phát triển , sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm sút (tiêu dùng không đầy đủ), nguyên nhân tiêu dùng không đầy đủ ( lạc hậu so với sản xuất ), là do sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến phá sản những người sản xuất nhỏ. Do vậy làm cho thu nhập giảm, tiêu dùng giảm, kéo theo tình cảnh điêu đứng của những người vô sản thất nghiệp, tiền lương thấp làm giảm nhu cầu tiêu dùng mặt khác trong giai cấp tư sản cũng có khuynh hướng hạn chế tiêu dùng, tăng tích lũy. Từ đó S.Sismondi kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng.
nặng vào bên ngoài ở cả đầu vào lẫn đầu ra. Vốn nước ngoài hiện nay chiếm trên 30% tổng số vốn xã hội; kim ngạch nhập khẩu lên tới 90,2% GDP vào năm 2007. Còn kim ngạch xuất khẩu năm 2007 chiếm tới 76,8% GDP; nếu cộng cả xuất lẫn nhập khẩu thì bằng 167%. Đó là chưa kể cơ cấu rất không hợp lý: nhóm nông – lâm – thủy sản chiếm tới 20,57%, dầu thô chiếm 16,52% và than chiếm 2,21%. Sản phẩm chế biến tuy chiếm 37,6% song chủ yếu là gia công, lắp ráp. Sản phẩm điện tử, vi tính chỉ chiếm 4,21% mà cũng chỉ là lắp ráp, gia công.
Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy, nước nào tùy thuộc quá nhiều vào xuất khẩu càng bị tác động nhiều. Tuy trong giai đoạn hiện nay nước ta vẫn phải dành ưu tiên cao cho xuất khẩu, còn phải nhập khẩu nhiều, song chiến lược trung và dài hạn cần cơ cấu lại theo hướng: giảm tỷ trọng xuất – nhập khẩu trong GDP và phấn đấu xây dựng một cơ cấu tiến bộ; nếu không kinh tế nước ta sẽ luôn luôn kém hiệu quả, sẽ tụt hậu lâu dài, đồng thời khó bề trụ vững trước những sóng gió trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thị trường trong nước không nhỏ, chẳng bao lâu sau sẽ lên tới 100 triệu dân với thu nhập ngày càng cao, không thể không tăng cường và chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Bên cạnh đó, hơn bao giờ hết cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa phương tiện thanh toán và dự trữ ngoại tệ để duy trì thế cơ động linh hoạt.
Về mặt chính trị có mấy vấn đề đáng lưu ý:
- Trong hoàn cảnh ngày nay ít có khả năng khủng hoảng đưa tới chiến tranh để phân chia lại thị trường, xu hướng chủ yếu sẽ là tìm cách dàn xếp mâu thuẫn, dung hòa lợi ích để tránh sự sụp đổ toàn hệ thống. Điều đó càng củng cố nhận định của Đảng ta rằng, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, trong vài thập kỷ tới ít có khả năng nổ ra chiến tranh thế giới; hòa bình và hợp tác và phát triển là xu thế lớn.
Mặt khác, khi nước ta đã hội nhập quốc tế và có vị thế quốc tế khá cao thì cần chủ động tham gia vào quá trình dàn xếp, hợp tác quốc tế để hình thành trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng và dân chủ.
- Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy có sự chuyển dịch "quyền lực toàn cầu". Chúng ta cần theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu thấu đáo để có quyết sách thích hợp có lợi nhất cho đất nước cả về chính trị lẫn kinh tế.
KẾT LUẬN
Lý luận tái sản xuất của Mác là sự kế thừa có phê phán các tư tưởng của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển. F.Quesney là người đầu tiên nghiên cứu về tái sản xuất, ông đã có nhiều cống hiến khoa học, song cũng còn nhiều hạn chế bởi tư tưởng trọng nông. Tiếp đó đến AdamSmith, D.Ricardo, J.Sismondi, nhưng sự bổ sung không được bao nhiêu, thậm chí có nhiều điểm thụt lùi so với F.Quesney.Trên những thành tựu đó Mác đã bổ sung và phát triển làm cho lý luận tái sản xuất được hoàn thiện và khoa học, đây chính là một trong những nội dung rất quan trọng trong cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học do Mác- Ăngghen tiến hành.
Nghiên cứu lý luận tái sản xuất tư bản xã hội trong lịch sử các học thuyết kinh tế cho ta một cách nhìn khách quan khoa học trong nhận thức cả về lý luận và thực tiễn với vấn đề khủng hoảng kinh tế . Một trong những vấn đề nóng bỏng của các nền kinh tế hiện nay.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tê thế giới, với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh cực kinh tế. Tiếp tục đổi mới, xây dựng hoàn thiện và phát triển thể chế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự tham gia hội nhập ngày càng phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng với nền kinh tê thế giới cho nên việc hứng chịu khủng hoảng kinh tế diễn ra trong hai năm vừa qua là điều không thể tranh khỏi. Tuy nhiên thấy được điều đó Đảng và nhà nước ta đã có những quyết sách đúng đắn và khoa học đưa nước ta thoát ra được khủng hoảng kinh tế và duy trì được tốc độ phát triển khá cao. Là một nền kinh tế nhỏ nhưng duy trì được sự ổn định và phát triển bến vững đó chính là ở chỗ chúng ta nhân thức đúng, tuân thủ quy luật và phát huy hiệu quả vai trò của Nhà nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một lần nữa chúng ta khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế xây dựng nước Việt Nam : “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY
Phạm Nguyễn Ngọc Anh – Học viện chính trị
MỞ ĐẦU
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy, bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc, thì đồng thời đều là quá trình tái sản xuất. Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại đã có nhiều nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Tiêu biểu phải kể đến đó là nhà kinh tế người Pháp F.Quesnay với “biểu kinh tế F.Quesnay” nổi tiếng; Adam.Smith cũng để lại trong lịch sử tư tưởng kinh tế những đóng góp nhất định về tái sản xuất;David Ricardo với “lý thuyết thực hiện”; đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp J.Sismondi người đã đưa ra những lời thông báo về sản xuất thừa và khủng hoảng kinh tế…Tuy nhiên người đã tạo nên bước ngoặt cách mạng, khoa học trong kinh tế chính trị nói chung và trong lý luận về tái sản xuất nói riêng không ai khác đó chính là Các Mác. Nhà lý luận kiệt xuất của nhân loại đã có những phát kiến và dự báo thiên tài với những lập luận sắc bén, khoa học, Người đã chứng minh quá trình khủng hoảng kinh tế dưới Chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan, từ đó vạch ra bản chất và sự tất yếu diệt vong của Chủ nghĩa tư bản – điều mà các nhà lý luận nói chung và các nhà kinh tế chính trị nói riêng trước đó không làm được, hay không thoát ra được gánh nặng giai cấp của mình.
Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?”. Thật ra câu hỏi của nữ hoàng Anh cũng là câu hỏi của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhân loại vừa mới trải qua những ngày đen tối có tính chu kỳ.
Một lần nữa nghiên cứu lý luận tái sản xuất trong lịch sử tư tưởng kinh tế để có cái nhìn khách quan, toàn diện với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với chút ít tham vọng đó tác giả chọn chủ đề : “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh tế hiện nay” làm nội dung thu hoạch môn học của mình.
NỘI DUNG
Như đã trình bày, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng kinh tế đã có nhiều trường phái, nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Đây chính là những tiền đề về mặt lý luận cho Các Mác kế thừa và phát triển học thuyết về tái sản xuất xã hội của mình.
Sự phát triển kinh tế vào nửa cuối thế kỷ XVIII ở Châu Âu được chuyển dần trọng tâm sang sản xuất, vai trò của thương nghiệp bị giảm sút, các lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương bị mất sức thuyết phục, làm xuất hiện cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương. Trong điều kiện đó, ở nước Anh ra đời kinh tế chính trị tư sản cổ điển, còn ở nước Pháp ra đời trường phái trọng nông hay chủ nghĩa trọng nông, thường gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Pháp. Đại biểu tiêu biểu cho trường phái trọng nông của Pháp đó chính là F.Quesnay – người đã đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nên lý luận về tái sản xuất. Học thuyết này được trình bày tập trung trong “Biểu kinh tế”(1752) và “Phân tích biểu kinh tế” (1766). Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế chính trị F.Quesnay đã phân tích quá trình tái sản xuất tư bản xã hội trong một sơ đồ khái quát, giản đơn nhưng có sức tổng hợp cao, vô số những hành vi lưu thông cá biệt được tổng hợp lại thành một sự vận động phổ biến (quy luật) có tính chất xã hội. Các Mác đánh giá rất cao “Biểu kinh tế”, coi đó là tư tưởng thiên tài
Để nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội F.Quesnay đã áp dụng khá thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học. “Biểu kinh tế” được nghiên cứu trên những giả định sau:
- Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, bởi như Mác phân tích sau này nghiên cứu tái sản xuất giản đơn là nghiên cứu yếu tố hiện thực của tích lũy, của tái sản xật mở rộng
- Lấy tư bản hàng hóa làm điểm xuất phát, sau này Các Mác cũng đã làm như vậy
- Không tính đến biến động về giá cả ( giá cả bằng giá trị)
- Không tính đến ngoại thương, đây là giả định cần thiết mà sau này J.Sismondi và phái dân túy Nga đã không hiểu khi phân tích lý luận tái sản xuất
- Tái sản xuất là quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật và giá trị. Quá trình lưu thông sản phẩm gắn với lưu thông tiền tệ, tiền tệ trở về điểm xuất phát ban đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất.
- Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi giữa ba giai cấp: Giai cấp sở hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất
- Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm 7 tỷ Frăng, trong đó 5 tỷ là sản phẩm nông nghiệp, 2 tỷ là sản phẩm của giai cấp không sản xuất. Trong 5 tỷ sản phẩm nông nghiệp có 1 tỷ để bù đắp tư bản ứng trước đầu tiên, 2 tỷ để bù đắp khoản ứng ra hằng năm, 2 tỷ sản phẩm thuần túy nộp cho giai cấp sở hữu )
- Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp có ( 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật liệu, 1 tỷ bù đắp tư liệu tiêu dùng)
- Để lưu thông 7 tỷ sản phẩm trên, giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền mặt với tư cách là tiền tô để trả cho giai cấp sở hữu
“ Biểu kinh tế” của F.Quesnay phân tích quá trình vận động của tổng sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn được thể hiện thông qua 5 hành vi:
+ Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô để mua nông phẩm của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ nông phẩm ra khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu
+ Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô còn lại để mua một tỷ hàng công nghệ của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ trong hai tỷ sản phẩm công nghiệp đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu.
+ Hành vi 3: Sau khi nhận một tỷ tiền của giai cấp sở hữu, giai cấp không sản xuất đem tiến đó mua tư liệu sinh hoạt ( nông phẩm) của giai cấp sản xuất. Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được 2/5 số sản phẩm của mình.
+ Hành vi 4: Giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền vừa thu được để mua TLSX của giai cấp không sản xuất, vậy là giai cấp không sản xuất đã thực hiện xong hai tỷ công nghệ phẩm
+ Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền vừa nhận được để mua nguyên liệu của giai cấp sản xuất.
Kết quả 5 hành vi trên là giai cấp sản xuất đã bán được 3 tỷ nông phẩm, 2 tỷ còn lại dùng để bù đắp chi phí hằng năm( tư bản lưu động) và thu về được 2 tỷ tiền mặt để trả cho giai cấp sở hữu với tư cách tiền tô. Và như vậy quá trình tái sản xuất năm sau đã đầy đủ các yếu tố để diễn ra một cách trôi chảy…
“Biểu kinh tế” được đánh giá là một trong những cống hiến to lớn đối với lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại. khi nhận xét về “Biểu kinh tế” C.Mác đã khẳng định những công lao to lớn của F.Quesnay đó là:
- Đã sử dụng khá thành thạo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đã đưa ra những giả định cơ bản là đúng vì chỉ trên cơ sở những giả định đó mới nghiên cứu quá trình tái sản xuất tư bản xã hội
- Đã phân tích sự vận động của tổng sản phẩm xã hội trên cả hai mặt giá trị và hiện vật, nghiên cứu sự vận động của sản phẩm kết hợp với sự vận động ngược chiều của tiền tệ.
- Phân tích sự lưu thông tiền tệ phải theo quy luật tiền bỏ vào lưu thông phải quay về điểm xuất phát ban đầu, vì nếu tiền không quay về điểm xuất phát ban đầu thì quá trình tái sản xuất sẽ không diễn ra
Mặc dù có những đóng góp to lớn cho sư phát triển của khoa học kinh tế song “Biểu kinh tế” của F.Quesnay cũng còn bộc lộ một số hạn chế :
- Gán cho giai cấp sở hữu một chức năng kinh tế là tạo ra cú huých đầu tiên để quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội được tiến hành( dùng tiền tô để mua hàng của giai cấp không sản xuất và sản xuất)
- Phân chia xã hội thành ba giai cấp trên cơ sở lý luận của sản phẩm thuần túy là không đúng. Ông cho rằng chỉ có lĩnh vực nông nghiêp là lĩnh vực sản xuất còn các lĩnh vực khác là lĩnh vực không sản xuất. Khái niệm giai cấp không sản xuất của ông rất tầm thường và không khoa học. Ông cũng cho rằng toàn bộ sản phẩm thuần túy tiêu dùng hết nên không thể tái sản xuất mở rộng được. Điều này gián tiếp F.Quesnay cho rằng dưới CNTB không có khủng hoảng kinh tế, và như thế CNTB tồn tại vĩnh viễn như là xã hội cuối cùng trong lịch sử. Một cái nhìn thiển cận, bảo thủ trì trệ của chủ nghĩa trong nông nói chung và của F.Quesnay nói riêng.
- Không thấy được sự trao đổi trong nội bộ ngành công nghiệp, công nghiệp không tiêu dùng sản phẩm của mình cũng như không bù đắp chi phí tư liệu sản xuất của mình. Do vậy, họ không thể tái sản xuất.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế song “ Biểu kinh tế” được coi là khởi thủy của học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội mà sau này C.Mác tiếp tục nghiên cứu phát triển. Cũng trên cơ sở học thuyết tái sản xuất của mình chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định rõ những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ ra sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển khác cung khá nổi tiếng với lý thuyết về bàn tay vô hình đó chính là Adam Smith (1723-1790). Ông cũng đã dề cập đến lý luận về tái sản xuất. Adam Smith một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Các.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của Adam Smith đó là phương pháp hai mặt: Một mặt, Adam Smith đi sâu tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng, quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô tả , liệt kê, thuất lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bề ngoài của đời sống kinh tế và do đó cũng thường dẫn đến những kết luận phi lý tầm thường. Hai phương pháp này của Adam Smith luôn sống bên nhau, quyện chặt vào nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Phương pháp luận có tính hai mặt vừa khoa học, vừa tầm thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
Vế lý luận tái sản xuất, Adam Smith dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao động để xây dựng lý luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hóa bao gồm các thu nhập: tiền lương, lợi nhuận. địa tô. Theo ông tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào...tổng giá trị trao đổi hay giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ phận đó”. Như vậy tổng giá trị của hàng hóa chỉ có V+m, chỉ bằng giá trị mới sáng tạo ra, còn bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản xuất đã bị Adam Smith loại ra khỏi giá trị của hàng hóa. Ông coi giá trị của TLSX nằm trong tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Sai lầm của Adam Smith là ông đã lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm với giá trị mới sáng tạo ra; ông không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, không thấy được sự dịch chuyển giá trị cũ và sự sáng tạo ra giá trị mới. Adam Smith đã đã vấp phải vấn đề cần phân biệt trong lý luận, đó là hai hình thức lao động, một thứ cung cấp vật phẩm tiêu dùng, còn một thứ cung cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng (máy móc, công cụ). Lê nin cho rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. Như vậy Adam Smith đã cò một bước tiến dài so với những người trước ông. Ở ông đã có mầm móng thiên tài về sự phân chia nền sản xuất thành hai khu vực. Chính C.Mác đã bắt gặp “gợi ý” của Adam Smith và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản phẩm xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng Các Mác đánh giá cao Adam Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích lũy thì phải dành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận điểm này của Adam Smith nói rõ nguồn gốc của tích lũy tư bản là lao động. nhưng ông đã phạm sai lầm cho rằng việc tích lũy tư bản chỉ là việc biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản bất biến phụ thêm.
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith đã đề cập đến sản phẩm – chia làm hai nhóm TLSX và TLTD, giá trị sản phẩm gốc gồm có C+V+m phân chia nền sản xuất xã hội hai khu vực nhưng lí giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này phải chờ đến Mác mới giải quyết được. Có thể nói công lao to lớn nhất của Adam Smith là đaã đưa khoa học kinh tế chính trị thành một hệ thống.
David Ricardo là một đại biểu kiệt xuất của khoa kinh tế chính trị tư sản. Các Mác coi ông là người đã hoàn thành lý luận của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Ông là nhà tiền bối lớn nhất của Mác.
David Ricardo sống trong thời kỳ hoàn thành cách mạng công nghiệp ở Anh. Đó chính là điều kiện khách quan làm cho việc nghiên cứu của ông vượt qua được giới hạn mà AdamSmith dừng lại. Thế giới quan của ông có tính duy vật, tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông là chủ nghĩa duy vật máy móc. Là tư tưởng gia của giai cấp tư sản công nghiệp, David Ricardo coi khát vọng tăng thu nhập của giai cấp tư sản là một tiêu chuẩn kinh tế (ông xuất thân từ một người buôn chứng khoán), ông ít quan tâm đến lợi ích và vận mệnh của giai cấp vô sản và cho rằng cách sản xuất cách sản xuất tư bản chủ nghĩa là cách có ợi nhát để tạo ra của cải. Ông đã có những giả định đúng, xem tiêu dùng là do sản xuất quyết định, muốn tái sản xuất mở rộng thì phải làm cho sản xuất vượt quá tiêu dùng. Sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị trường
Theo ông cách sản xuất tư bản chủ nghĩa có hai mâu thuẫn chi phối đó là: tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm trong quá trình tích lũy tư bản và mâu thuẫn về kinh tế giữa các giai cấp trong xã hội. Ông không nhận thấy những mâu thuẫn khác bắt nguồn từ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. David Ricardo phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, ông khẳng định nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng phổ biến, vì lượng cầu thường là những lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng cầu đó được củng cố thêm bằng lượng cung hàng hóa và “ sản phẩm bao giờ cũng được mua bằng sản phẩm hay bằng những sự phục vụ, tiền chỉ làm thước đo khi thực hiện sự trao đổi đó”. Ông chỉ thừa nhận khủng hoảng sản xuất thừa cá biệt loại sản phẩm này hay loại sản phẩm kia, nhưng chủ nghĩa tư bản có thể điều chỉnh được mất cân đối chỉ là tạm thời.
Lý luận về thực hiện tổng sản phẩm xã hội của David Ricardo là điểm yếu nhất trong học thuyết kinh tế của ông. Ông chưa tiến lên một bước nào so với các nhà kinh tế trước đó. Ông mất năm 1823 nên không được chứng kiến cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên của chủ nghĩa tư bản diễn ra năm 1825. Mác viết “lịch sử có thể tha thứ cho ông”
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi đáng kể về kinh tế xã hội ở các nước tư bản Tây Âu. Giai cấp tư sản và vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản. Sản xuất bằng máy móc ra đời, làm cho sự phụ thuộc của công nhân vào nhà tư bản từ hình thức trở thành thực tế. Cạnh tranh vô chính phủ, phân hóa giai cấp, sự bần cùng hóa và thất nghiệp của giai cấp vô sản ngày càng tăng. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản xuất hiện mà đại biểu tiêu biểu phải kể đến đó là S.Sismondi. Mác coi J.Sismondi là đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp.
J.Sismondi cho rằng mục đích của sản xuất là tiêu dùng: sản xuất phải phù hợp với thu nhập và thu nhập phải phù hợp với tiêu dùng chính vì vậy sản xuất phải phù hợp với tiêu dùng; nếu sản xuất vượt quá tiêu dùng (tiêu dùng không đầy đủ) thì một bộ phận hàng hóa sẽ không thực hiện được giá trị nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Khác với quan điểm của Ricardo ông cho rằng khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan chứ không phải cục bộ ngẫu nhiên. Chính vì vậy J.Sismondi đã đi tìm nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Ông đưa ra tiền đề lý luận, tiêu dùng đóng vai trò quyết định sản xuất, nhu cầu quyết định sản xuất, sản xuất tư bản chủ nghĩa tách rời nhu cầu vì sản xuất phụ thuộc động cơ thu lợi nhuận tối đa, vì sự phát triển của công nghiệp cơ khí. Từ đó ông khẳng định, nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản càng phát triển , sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm sút (tiêu dùng không đầy đủ), nguyên nhân tiêu dùng không đầy đủ ( lạc hậu so với sản xuất ), là do sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến phá sản những người sản xuất nhỏ. Do vậy làm cho thu nhập giảm, tiêu dùng giảm, kéo theo tình cảnh điêu đứng của những người vô sản thất nghiệp, tiền lương thấp làm giảm nhu cầu tiêu dùng mặt khác trong giai cấp tư sản cũng có khuynh hướng hạn chế tiêu dùng, tăng tích lũy. Từ đó S.Sismondi kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng.
nặng vào bên ngoài ở cả đầu vào lẫn đầu ra. Vốn nước ngoài hiện nay chiếm trên 30% tổng số vốn xã hội; kim ngạch nhập khẩu lên tới 90,2% GDP vào năm 2007. Còn kim ngạch xuất khẩu năm 2007 chiếm tới 76,8% GDP; nếu cộng cả xuất lẫn nhập khẩu thì bằng 167%. Đó là chưa kể cơ cấu rất không hợp lý: nhóm nông – lâm – thủy sản chiếm tới 20,57%, dầu thô chiếm 16,52% và than chiếm 2,21%. Sản phẩm chế biến tuy chiếm 37,6% song chủ yếu là gia công, lắp ráp. Sản phẩm điện tử, vi tính chỉ chiếm 4,21% mà cũng chỉ là lắp ráp, gia công.
Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy, nước nào tùy thuộc quá nhiều vào xuất khẩu càng bị tác động nhiều. Tuy trong giai đoạn hiện nay nước ta vẫn phải dành ưu tiên cao cho xuất khẩu, còn phải nhập khẩu nhiều, song chiến lược trung và dài hạn cần cơ cấu lại theo hướng: giảm tỷ trọng xuất – nhập khẩu trong GDP và phấn đấu xây dựng một cơ cấu tiến bộ; nếu không kinh tế nước ta sẽ luôn luôn kém hiệu quả, sẽ tụt hậu lâu dài, đồng thời khó bề trụ vững trước những sóng gió trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thị trường trong nước không nhỏ, chẳng bao lâu sau sẽ lên tới 100 triệu dân với thu nhập ngày càng cao, không thể không tăng cường và chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Bên cạnh đó, hơn bao giờ hết cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa phương tiện thanh toán và dự trữ ngoại tệ để duy trì thế cơ động linh hoạt.
Về mặt chính trị có mấy vấn đề đáng lưu ý:
- Trong hoàn cảnh ngày nay ít có khả năng khủng hoảng đưa tới chiến tranh để phân chia lại thị trường, xu hướng chủ yếu sẽ là tìm cách dàn xếp mâu thuẫn, dung hòa lợi ích để tránh sự sụp đổ toàn hệ thống. Điều đó càng củng cố nhận định của Đảng ta rằng, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, trong vài thập kỷ tới ít có khả năng nổ ra chiến tranh thế giới; hòa bình và hợp tác và phát triển là xu thế lớn.
Mặt khác, khi nước ta đã hội nhập quốc tế và có vị thế quốc tế khá cao thì cần chủ động tham gia vào quá trình dàn xếp, hợp tác quốc tế để hình thành trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng và dân chủ.
- Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy có sự chuyển dịch "quyền lực toàn cầu". Chúng ta cần theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu thấu đáo để có quyết sách thích hợp có lợi nhất cho đất nước cả về chính trị lẫn kinh tế.
KẾT LUẬN
Lý luận tái sản xuất của Mác là sự kế thừa có phê phán các tư tưởng của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển. F.Quesney là người đầu tiên nghiên cứu về tái sản xuất, ông đã có nhiều cống hiến khoa học, song cũng còn nhiều hạn chế bởi tư tưởng trọng nông. Tiếp đó đến AdamSmith, D.Ricardo, J.Sismondi, nhưng sự bổ sung không được bao nhiêu, thậm chí có nhiều điểm thụt lùi so với F.Quesney.Trên những thành tựu đó Mác đã bổ sung và phát triển làm cho lý luận tái sản xuất được hoàn thiện và khoa học, đây chính là một trong những nội dung rất quan trọng trong cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học do Mác- Ăngghen tiến hành.
Nghiên cứu lý luận tái sản xuất tư bản xã hội trong lịch sử các học thuyết kinh tế cho ta một cách nhìn khách quan khoa học trong nhận thức cả về lý luận và thực tiễn với vấn đề khủng hoảng kinh tế . Một trong những vấn đề nóng bỏng của các nền kinh tế hiện nay.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tê thế giới, với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh cực kinh tế. Tiếp tục đổi mới, xây dựng hoàn thiện và phát triển thể chế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự tham gia hội nhập ngày càng phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng với nền kinh tê thế giới cho nên việc hứng chịu khủng hoảng kinh tế diễn ra trong hai năm vừa qua là điều không thể tranh khỏi. Tuy nhiên thấy được điều đó Đảng và nhà nước ta đã có những quyết sách đúng đắn và khoa học đưa nước ta thoát ra được khủng hoảng kinh tế và duy trì được tốc độ phát triển khá cao. Là một nền kinh tế nhỏ nhưng duy trì được sự ổn định và phát triển bến vững đó chính là ở chỗ chúng ta nhân thức đúng, tuân thủ quy luật và phát huy hiệu quả vai trò của Nhà nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một lần nữa chúng ta khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế xây dựng nước Việt Nam : “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tự luận sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa phát triển kinh tế thị trường việt nam hiện nay, lí luận về tái sản xuất áp dụng việt nam hiện nay, sự phân tích của các mac về quá trình tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội, nhận xét Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội (biểu kinh tế của Quesney), 14.Từ thế kỷ XVIII đến nay, Kinh tế chính trị được chia làm hai nhánh: A.Kinh tế Chính trị của C. Mác và Kinh tế học hành vi B.Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô C.Kinh tế chính trị học và Triết học D.Kinh tế học và Chính trị học, Lý luận tái sản xuất của C.Mác và khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Ý nghĩa, tái sản xuất tại việt nam hiện nay, nghiên cứu biểu kinh tế của f quesnay, tiểu luận lý thuyết tái sản xuất xã hội của f.quesnay, hiện nay kinh tế khác gì so với lập luận của các mác về tiền tệ, phân tích lý thuyết tái sản xuất và khủng hoảng kinh tế
Last edited by a moderator: