vannho2610

New Member
Download Báo cáo Tập tục sinh đẻ, Nghi lễ đặt tên cho trẻ dân tộc Thái, ngành Thái đen bản Che Căn, xã Mường Phăng miễn phí


PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÀ XÃ MƯỜNG PHĂNG.
I. DÂN TỘC THÁI.
1. Lịch sử dân tộc.
2. Tên gọi.
3. Dân cư và sự phân bố.
II.TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ MƯỜNG PHĂNG.
1. Tình hình chung.
2. Công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành.
3. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên như sau:
a. Lĩnh vực phát triển kinh tế.
b. Về Văn hóa xã hội.
c. Quốc phòng an ninh.
III. KHÁI QUÁT CÁC HÌNH THÁI VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI THÁI.
1. Hoạt động kinh tế.
a. Nông nghiệp trồng trọt.
b. Chăn nuôi.
c. Thủ công gia đình.
d. Hái lượm và Săn bắt.
e. Trao đổi và buôn bán.
2. Thiết chế làng bản.
3. Quan hệ gia đình dòng họ.
4. Hôn nhân gia đình.
5. Sinh đẻ và nuôi con.
6. Tang ma.
7. Trang phục.

PHẦN II: TẬP TỤC SINH ĐẺ, NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ
DÂN TỘC THÁI.
A- TẬP TỤC SINH ĐẺ.
I- Mục đích, ý nghĩa.
II- Thời gian và địa điểm tổ chức.
III- Các bước chuẩn bị cho lễ.
IV. Trình tự trong Tập tục sinh đẻ.
B- NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ.
I- Mục đích, ý nghĩa.
II- Thời gian và địa điểm tổ chức.
III- Các bước chuẩn bị cho lễ.
IV. Trình tự trong Nghi lễ đặt tên cho trẻ.
C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.


















PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÀ XÃ MƯỜNG PHĂNG .
I. DÂN TỘC THÁI.
1. Lịch sử dân tộc.
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân tộc ít người như: Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía Đông và Bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á như: Lào, Thái Lan, Bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở Đông Bắc Ấn Độ cũng như phía Nam Vân Nam (Trung Quốc).
Theo sách sử Việt Nam, vào thời nhà Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Muổi (Sơn La) Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc, dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận, họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekông thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên, sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975.
2. Tên gọi.
Tày, Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc, Tay Dọ, Thổ.
3. Dân cư và sự phân bố.
Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, dân tộc Thái ở Việt Nam có số dân là 1.328.725 người, chiếm 1,74 % dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6 % tổng số người Thái ở Việt Nam). Trong đó tại Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa (Tân Thanh-Thường Xuân-Thanh Hóa), Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và các huyện miền núi như Bá Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ An).
Nhóm ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lượng (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vì (Vi), Xa (Sa).
II.TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ MƯỜNG PHĂNG.
1. Tình hình chung.
Mường Phăng là một xã thuộc huyện Điện Biên, cách trung tâm huyện 25 km về phía Đông Bắc. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 9.158,56 ha, trong đó: đất sản xuất nông nghiệp là 1.165,34 ha; đất lâm nghiệp là 5.430 ha; đất chưa sử dụng là 532,54 ha; đất phi nông nghiệp là 2.030,59 ha.
Vị trí tiếp giáp: - Phía Bắc: giáp huyện Mường Ẳng.
- Phía Nam: giáp TP. Điện Biên Phủ
- Phía Đông: giáp huyện Điện Biên Đông.
- Phía Tây: giáp xã Nà Tấu và Nà Nhạn.
Xã có 47 đội, gồm 1.769 hộ với 8.684 nhân khẩu, có 04 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó: Dân tộc Thái 71%; Dân tộc Kinh 02%; Dân tộc Khơ Mú 16%; Dân tộc Mông 11%.
2. Công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành.
C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Qua công tác điền dã và đi sâu tìm hiểu khai thác thông tin cũng như nghiên cứu những sắc thái văn hóa đặc trưng về dân tộc Thái. Đặc biệt là việc Nghiên cứu Bảo tồn Văn hóa Thái ngành Thái đen bản che căn, xã Mường Phăng, huyện Điện Biên.
Ở Điện Biên, dân tộc Thái phân bố ở khắp các huyện, thị trong tỉnh tập trung nhiều nhất ở thị xã Mường Lay, huyện Điện Biên, huyện Tuần Giáo.
Dân tộc Thái là một trong những dân tộc thiểu số có lịch sử cư trú từ lâu đời ở tỉnh Điện Biên góp phần làm phong phú, đa dạng thêm bản sắc văn hoá của một tỉnh đa dân tộc.
Là dân tộc nằm trong nhóm tộc người nói tiếng Tày - Thái thuộc Ngữ hệ Nam á. Dân tộc Thái ở tỉnh Điện Biên là dân tộc còn lưu truyền được rất nhiều phong tục tập quán, lối sống, nếp sống, nghi lễ truyền thống, đặc trưng của dân tộc như: Đám cưới, Ma chay, lễ hội truyền thống như: lễ Xên Bản, Xên Mường, lễ Xên phắn bẻ, lễ cầu Mưa...thông qua những nghi lễ này thể hiện được những mong muốn, ước vọng đơn sơ trong tư duy của Người dân tộc thiểu số, song những yếu tố văn hoá truyền thống này rất cần được nghiên cứu để hoạch định được những yếu tố văn hoá tích cực giúp dân tộc phát huy tốt, nhằm tôn lên được những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

Tập tục sinh đẻ và Nghi lễ đặt tên cho trẻ (dân tộc Thái, Ngành Thái đen tỉnh Điện Biên).doc

 
Last edited by a moderator:

Download Báo cáo Tập tục sinh đẻ, Nghi lễ đặt tên cho trẻ dân tộc Thái, ngành Thái đen bản Che Căn, xã Mường Phăng miễn phí





PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÀ XÃ MƯỜNG PHĂNG.
I. DÂN TỘC THÁI.
1. Lịch sử dân tộc.
2. Tên gọi.
3. Dân cư và sự phân bố.
II.TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ MƯỜNG PHĂNG.
1. Tình hình chung.
2. Công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành.
3. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên như sau:
a. Lĩnh vực phát triển kinh tế.
b. Về Văn hóa xã hội.
c. Quốc phòng an ninh.
III. KHÁI QUÁT CÁC HÌNH THÁI VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI THÁI.
1. Hoạt động kinh tế.
a. Nông nghiệp trồng trọt.
b. Chăn nuôi.
c. Thủ công gia đình.
d. Hái lượm và Săn bắt.
e. Trao đổi và buôn bán.
2. Thiết chế làng bản.
3. Quan hệ gia đình dòng họ.
4. Hôn nhân gia đình.
5. Sinh đẻ và nuôi con.
6. Tang ma.
7. Trang phục.
 
PHẦN II: TẬP TỤC SINH ĐẺ, NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ
DÂN TỘC THÁI.
A- TẬP TỤC SINH ĐẺ.
I- Mục đích, ý nghĩa.
II- Thời gian và địa điểm tổ chức.
III- Các bước chuẩn bị cho lễ.
IV. Trình tự trong Tập tục sinh đẻ.
B- NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ.
I- Mục đích, ý nghĩa.
II- Thời gian và địa điểm tổ chức.
III- Các bước chuẩn bị cho lễ.
IV. Trình tự trong Nghi lễ đặt tên cho trẻ.
C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng, bằng gạo, củi, rượu... Ngày nay ngoài các hình thức trên nếu có điều kiện họ có thể giúp đỡ bằng tiền.
Quan hệ tương trợ trong dòng họ còn thể hiện ở việc đổi công trong lúc mùa vụ, dựng nhà mới hay giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, rủi ro...
Người Thái ở Điên Biên chủ yếu là các Họ Lò, Lường, Vì, Khoàng, Quàng, Cầm...trong đó họ Lò Được chia làm 3 họ (Lò nọi, Lò căm, Lò Ngân). Mỗi dòng họ có những quan niệm quy định khác nhau.
4. Hôn nhân gia đình.
Trước đây, trong hôn nhân của người Thái thường làm rườm rà, mất thời gian, gây tốn kém tiền của cho gia đình tổ chức lễ thành hôn cho đôi vợ chồng trẻ. Ngày nay, xã hội phát triển, nhận thức được những điều đó, nên việc tổ chức hôn nhân cho đôi vợ chồng trẻ cũng được giản tiện đi rất nhiều, nhưng vẫn giữ được các sắc thái truyền thống riêng của dân tộc mình.
Để đôi bạn trẻ từ khi quen biết, nẩy sinh tình cảm cho tới lúc thành vợ thành chồng phải trải qua các bước như sau:
- Các bước ăn hỏi: Sang thăm dò (pay trám); sang ướm hỏi (pay mai); sang ăn hỏi đứt giá trầu cau (pay báy). Đặc biệt có nghi lễ gửi rể là nghi lễ rất quan trọng để gia đình nhà gái thử thách chàng rể tương lai, sau khi chàng rể trải qua các bước thử thách của gia đình nhà gái (chàng rể đã được gia đình nhà gái ưng ý), các bước tiếp theo sẽ được tiến hành tiếp.
- Các bước trong lễ thành hôn: Lễ trải chăn đệm (pù phả pù sứa); lễ búi tóc ngược (tẳng cảu); xướng lễ báo ma nhà (lau phi hướn).
Trong lễ thành hôn, bước xướng lễ báo ma nhà là bước cuối cùng, sau khi thủ tục báo các tổ tiên đã hoàn tất, cả hai bên gia đình nội ngoại, tất cả những khách mời tới dự lễ cùng nhau uống rượu mừng, chúc cho đôi bạn trẻ hạnh phúc, tới đây coi như lễ thành hôn đã hoàn tất các thủ tục và kết thúc lễ.
Trong tổ chức hôn nhân của dân tộc Thái đen đều phải trải qua các bước nghi lễ như trên, mỗi một bước đều có những nghi thức hát đối đáp giữa thay mặt gia đình nhà trai và thay mặt gia đình nhà gái, nội dung hát đối đáp chủ yếu là để thăm dò đi tới sự thống nhất cuối cùng là gia đình nhà gái có nhất trí hay không. Đối với trường hợp gia đình nhà gái không nhất trí, mọi công việc sẽ phải dừng lại ở bước sang ướm hỏi. Trong trường hợp còn lại mọi bước tiến hành vẫn diễn ra bình thường, Mỗi một bước lễ đều có những lời khấn, bùa chú do thầy mo được gia đình mời tới chủ trì.
5. Tang ma.
Từ xa xưa, dân tộc Thái đã có sự phân chia thứ bậc trong họ tộc gồm 02 họ chính: họ "Lò luông" và họ "Lò nọi". Trong đó, họ Lò luông gồm các họ như: Bạc; cầm...họ Lò nọi gồm các họ như: Lò; Lường...
Trong nghi thức tang ma phần lớn các thủ tục, nghi thức, nghi lễ gần giống nhau gồm các bước như:
- Túc trực khi hấp hối: trong nhà khi có người hấp hối, anh em ruột luôn túc trực ở bên cạnh. Lúc này, theo suy đoán của gia đình có thể người đang hấp hối sẽ không qua khỏi, người nhà sẽ lấy các loại lá thơm như lá khế, lá bưởi về đun nước để phòng khi người đó nhắm mắt, xuôi tay còn có nước thơm để lau chùi cho sạch sẽ.
- Sau khi tắt thở, lấy khăn mặt của người quá cố nhúng vào nước lá thơm, lau chùi thân thể, chải đầu tóc vừa chải tóc vừa nói vài câu với nội dung đại loại như: " tắm rửa cho sạch, tắm sạch đi theo ma, chải tóc mượt đi về với tổ tiên dòng họ". Tiếp đến là mặc quần (váy), áo cho người quá cố, sau đó tiến hành các bước tiếp theo như khâm liệm, chuẩn bị vải vóc, áo quan, tiến hành báo trời đất, báo tổ tiên và cử người đi xem này giờ để mở tang, chôn cất.
- trong việc chôn cất nhất thiết không được trùng những ngày như: ngày thờ cúng tổ tiên (vến túng), ngày sinh của những người trong gia đình (vến ók),ngày lên nhà mới của gia đình (xanh pháy hướn).
Trong tang lễ của người Thái còn có rất nhiều các nghi thức, thủ tục, nghi lễ liên quan như: làm nhà mồ cho người chết, làm cây cao, các vật dụng chia cho người chết, các con vật hiến tế...
Mỗi một tang lễ đều có sự đóng góp của anh em, họ hàng trong làng bản, thể hiện tính đoàn kết, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn.
Trong gia đình có tang lễ sẽ cử người đi nhờ thầy mo, là người biết xướng lễ, biết chỉ đường dẫn lối cho hồn người chết lên mường trời, về với tổ tiên.
Bài xướng lễ để tiễn đưa hồn người chết về mường trời trước đây thường rất dài, có thể kéo dài tới 5-6 ngày. Ngày nay trình độ nhận thức đã tiến bộ rất nhiều, các bài xướng lễ đã được cắt ngắn đi rất nhiều nhưng vẫn giữ được đầy đủ các bước chính của phần lễ.
Đối với họ Lò nọi, bài xướng lễ của thầy mo chỉ tiễn hồn người chết tới " liến pán nọi" là kết thúc lễ xướng tức là nơi hội tụ, làm ăn của các linh hồn dòng họ Lò nọi. Đối với họ Lò luông, bài xướng dài hơn một chút, tức là lời xướng lễ sẽ trải qua "liến pán nọi" lên tới "liến pán luông" mới kết thúc lễ xướng và chuẩn bị các thủ tục khác để đưa linh cữu người chết về nơi an nghỉ cuối cùng.
6. Trang phục.
Trang phục truyền thống của đồng bào Thái chứa đựng những nét văn hóa đặc trưng riêng của tộc người, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Gồm có trang phục nam và trang phục nữ, trong đó:
+ Trang phục nam dân tộc thái: Áo, quần, mũ, tất cả đều được làm bằng vải tự dệt nhuộm chàm của dân tộc Thái. Ngày nay, trong phong cách vận bộ đồ trang phục truyền thống nam dân tộc Thái gần như không còn nguyên vẹn, do phụ nữ đồng bào Thái đã không còn trú trọng tới việc thêu thùa, may vá nữa. Các trang phục nam ngày nay chủ yếu là mua các sản phẩm công nghiệp của dân tộc kinh có bán ngoài thị truờng.
+ Trang phục nữ dân tộc Thái: áo, váy, khăn piêu. Mỗi phụ nữ dân tộc Thái ngày nay gần như đều có một bộ áo, váy đầy đủ, đậm đà bản sắc văn hóa tộc người.
PHẦN II: TẬP TỤC SINH ĐẺ, NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ
DÂN TỘC THÁI.
A- TẬP TỤC SINH ĐẺ.
I. Mục đích, ý nghĩa.
Dân tộc Thái canh tác chủ yếu trên ruộng nương trong điều kiện, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật ít, kinh tế chậm phát triển. Cuộc sống chủ yếu dựa vào yếu tố tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên diễn ra trong năm như: gió bão, mưa, lũ lụt, hạn hán, trăng khuyết, trăng tròn, nguyệt thực, dịch bệnh, ốm đau…tác động đến họ mà không lý giải được, làm cho họ sợ hãi. Do vậy, họ tìm kiếm sự che trở từ các thế lực siêu nhiên giúp họ chống lại những tác động xấu từ ngoại cảnh. Người Thái tin vào số phận, tin vào trời (Then); mọi sự vật hiện tượng dưới trần gian đều do trời sắp đặt, trời đứng cai quản loài người và vạn vật.
Sinh đẻ của phụ nữ các dân tộc nói chung, dân tộc Thái nói riêng là theo quy luật phát triển của tự nhiên, đồng thời ở đó ta thấy được sự quan tâm của cộng đồng xã hội đối với một thành viên mới sắp ra đời như thế nào, từ lúc thai nghén, đến ở cữ, rồi hết ở cữ cho đến khi làm lễ nhập tổ tiên (nếp tạy).
Việc tìm hiểu, nghiên cứu, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân t
mình xin link với ạ
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Cải tiến phương pháp dạy học với yêu cầu tích cực hóa hoạt động học tập theo hướng giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề qua việc tổ chức dạy học hàm số liên tục Kiến trúc, xây dựng 0
D Báo cáo Thực tập tốt nghiệp thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Luận văn Kinh tế 0
D Báo cáo thực tập nghiệp vụ Làm thủ tục hải quan cho lô hàng tạm nhập tái xuất tại Công ty TNHH Đại Thiên Quý Luận văn Kinh tế 0
D Ebook Tuyển tập thành ngữ tục ngữ ca dao Việt - Anh thông dụng English 0
N Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập quán người Việt (trong quan hệ gia đình) Văn hóa, Xã hội 0
G Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập quán người Việt Văn hóa, Xã hội 2
G Tập tục hôn nhân của một số dân tộc xuyên biên giới Việt – Trung Văn hóa, Xã hội 0
L Áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật Việt Nam Luận văn Luật 2
T Kho tàng tục ngữ người Việt Tập 1, 2 PDF Văn học 0
V [4share] bộ sưu tập tổng hợp game hay cho pc [update liên tục] Download Game 14

Các chủ đề có liên quan khác

Top