lynne_lov_pik

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, học sinh các cấp, đặc biệt là cấp trung học phổ thông có thái độ không xem trọng bộ môn ngữ văn, cho bộ môn ngữ văn chỉ là môn phụ, không cần thiết phải tốn nhiều thời gian. Trong suy nghĩ của các em thường chỉ tập trung vào các môn tự nhiên để có thể đi tiếp vào cánh cửa trường đại học. Chính vì thế, việc giảng dạy bộ môn văn ở nhà trường phổ thông đã gặp những trở ngại, các em không có hứng thú học môn văn thì thầy cô cũng dễ bị mất niềm say sưa truyền đạt kiến thức đến cho học sinh. Với các tác phẩm là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ thì việc truyền đạt tương đối thuận lợi bởi trong những thể loại này “chất văn” đậm đà, phong phú, nổi bật đã giúp cho người thầy làm tốt được công việc của mình. Còn đối với tác phẩm kí thì việc giảng dạy có những khó khăn riêng. Vì việc giảng dạy kí đòi hỏi người giáo viên phải bám chắc đặc điểm cơ bản của thể kí, đó là tính xác thực. Tác phẩm kí thường không hư cấu mà tác giả chỉ lựa chọn ngay những sự việc, những con người vốn đã có giá trị điển hình trong cuộc sống. Nếu thầy giáo chỉ thỏa mãn với những kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ học bài kí diễn ra rất “khô khan”, học sinh khó tiếp nhận được tác phẩm. Từ đó, yêu cầu người giáo viên khi dạy những tác phẩm kí phải có ý thức nghiên cứu lí luận về thể kí và phải biết vận dụng linh hoạt phương pháp giảng dạy một thể loại văn học lấy người thực, việc thực làm đối tượng phản ánh, giúp cho học sinh hiểu biết và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của những sự việc, con người có tính tiêu biểu, điển hình và ý nghĩa của nó. Đồng thời, phải giúp học sinh biết liên hệ với thực tế đời sống, với những sự việc và con người gần gũi với nội dung tác phẩm thì bài giảng mới có thể hấp dẫn và sâu sắc.
Việc giáo viên và học sinh chưa chú trọng vào việc giảng dạy và học tập tác phẩm kí cũng bởi những nội dung của bài kí rất ít khi được đưa vào các đề thi cuối kì. Nếu có thì cũng chỉ nằm ở những mục câu hỏi về lý thuyết, chiếm một phần nhỏ trong tổng số điểm của đề thi. Ngoài ra, so sánh giữa các thể loại trong toàn bộ chương trình học bộ môn Ngữ văn ở cấp trung học phổ thông thì việc phân bố thời lượng cho những bài dạy về kí còn quá ít, lại rải đều trong hai năm lớp 11 và 12. Như vậy, mỗi năm, học sinh chỉ được học một đoạn trích nhỏ của tác phẩm kí trong năm lớp 11, và một bài bút kí, một bài tùy bút trong năm lớp 12. Từ đó, có thể thấy, học sinh lớp 11 chưa kịp ghi nhớ về thể loại ở bài học đầu năm lớp 11, thì

đã lại học sang một thể loại khác dài hơi hơn, rồi sang đến năm 12 (nghĩa là gần một năm sau) mới được tiếp tục tìm hiểu về thể loại này nhưng cũng với thời lượng bài học rất ngắn ngủi (4 tiết) và đoạn trích viết theo thể kí được phân bố trong chương trình rất ít, lại càng làm cho người giáo viên dễ có sự so sánh với các thể loại khác làm giảm bớt đi sự quan tâm, đầu tư thời gian với việc giảng dạy thể loại này.
Riêng đối với học sinh, việc học kém, thậm chí là coi thường bộ môn Ngữ văn đã được thấy rất rõ trong thời gian vừa qua, có những học sinh, sau khi học xong đã không còn nhớ đến những tác phẩm kí vừa được học. Bởi đối với các em, giờ học bộ môn Ngữ văn đã rất tẻ nhạt, lại phải học những tác phẩm kí thiên về tính chất xác thực, ít có sự hư cấu, lãng mạn lại làm các em thêm phần chán học những giờ này.
Từ những điều trên, chúng tui tiến hành nghiên cứu vấn đề Thể loại kí và việc giảng dạy tác phẩm kí ở trong nhà trường phổ thông để tìm hiểu thêm về những đặc điểm của thể kí, tìm hiểu thực trạng của việc dạy học tác phẩm kí ở trường phổ thông và góp phần đề xuất phương hướng giảng dạy kí nhằm nâng cao chất lượng dạy – học văn nói chung cũng như giờ dạy tác phẩm kí nói riêng được
2. Lịch sử vấn đề
Khác với truyện ngắn và tiểu thuyết vốn có sự ổn định tương đối về đặc trưng thể loại, các tác phẩm kí tuy cùng nằm trong loại hình văn xuôi tự sự song lại là tên gọi chung cho một nhóm thể tài có tính giao thoa giữa báo chí (chính luận, điều tra, ghi chép tư liệu, tường thuật sự kiện...) với văn học, in đậm dấu ấn “sự hợp nhất truyện và khảo cứu” [M. Gorki] và thường có tính xã hội, tính thời sự sâu sắc, bao gồm nhiều tiểu loại thể văn như bút kí, kí sự, phóng sự, tiểu thuyết phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút, tản văn, tạp văn, tiểu luận, ... Đặc điểm sự giao thoa này càng trở nên rõ ràng khi mà bản thân thể tài kí còn đang trong quá trình hình thành và phát triển, khi mà ngay đường biên thể loại giữa truyện ngắn và ghi chép, giữa tiểu thuyết và phóng sự đôi khi cũng chưa được phân định rõ nét.
Thể kí, như cái tên đặt cho nó, đã nói lên đặc điểm cơ bản của nó là thể văn dùng để “ghi lại” sự việc, ý nghĩa, cảm xúc, ... Mặc dù theo nguyên tắc, tích chất của thể kí là “xác thực” và người viết kí không được quyền hư cấu nhưng không thể coi viết kí chỉ là một công việc chụp ảnh và ghi âm một cách máy móc và vai trò của người viết kí là hoàn toàn thụ động mà người viết kí phải làm công việc lựa chọn, sắp xếp.
Lịch sử văn học đã cho thấy kí thường phát triển mạnh mẽ trong những thời kì mà xã hội có nhiều sự biến động nên ta phải thấy rằng thể kí có khả năng phản ánh “một cách

nhanh nhạy” cuộc sống. Do đó, nó là thể văn thích hợp nhất để ghi lại cuộc sống trong những giai đoạn như ta vừa nói. Như vậy, một đặc trưng nữa của thể kí là tính chất tương đối giản dị, ngắn, gọn, lưu loát về mặt hình thức. Kết cấu của bài kí thường rõ ràng theo trình tự diễn biến của sự việc. Tình tiết trong kí không lắt léo quanh co, thường là cụ thể, nổi bật.
Với chiều dài lịch sử của thể kí bắt đầu từ thời trung đại và kéo dài cho tới tận ngày nay chứng tỏ kí có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam nhưng thực tế trong chương trình dạy học Ngữ văn ở bậc phổ thông trung học thì những tác phẩm kí lại không có được tầm quan trọng như nó vốn có. Ba năm trung học phổ thông, học sinh chỉ được học ba tác phẩm thuộc thể loại kí:
1. Đầu năm học lớp 11 các em được học kí sự: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác
2. Đến gần cuối học kì I của năm học lớp 12 thì các em được học tiếp tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân thì có sẵn từ trước, còn tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì mới được đưa vào trong chương trình thay sách giáo khoa từ năm học 2003 – 2004.
Thêm một vấn đề nữa là từ trước đến giờ, thể kí vốn rất ít được các nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu quá trình phát triển của nó một cách cụ thể và sâu sắc nên dẫn đến việc nguồn tư liệu để tìm hiểu và nghiên cứu đối với thể loại này tương đối ít, gây ra khó khăn cho thầy cô giáo khi đứng lớp giảng dạy nói chung cũng như người viết luận văn nói riêng. Ngoài ra, nếu để ý thì chúng ta cũng có thể thấy trong chương trình thi cử của bộ môn này, thể loại kí rất ít khi được đưa vào làm nội dung trọng tâm trong các kì thi lớn nhỏ khác nhau ở trường trung học phổ thông. Với những trở ngại như thế, việc dạy – học những tác phẩm này đã và đang gặp không ít trở ngại, vướng mắc. Bởi trong suốt một quá trình dài trước đó, học sinh chủ yếu được học các tác phẩm văn xuôi thiên về tự sự. Dần dần, cảm xúc và nhận thức của các em đã quen nương theo cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết, ... Đến khi cần cảm thụ một tác phẩm văn xuôi giàu chất trữ tình, nghĩa là không còn những căn cứ quen thuộc để bám víu, chắc chắn các em sẽ gặp lúng túng. Vì không thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận trên lớp học đối với những nội dung này khó lòng đạt được kết quả như mong muốn.
Mặt khác, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm tùy bút trong sách giáo khoa và sách giáo viên (đều do Bộ Giáo dục ấn hành năm 2007) cũng chưa được trình

bày một cách thật sáng rõ và nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị giảng bài. Trong phần hướng dẫn giảng dạy và học tập các tác phẩm tùy bút trong sách giáo viên và sách giáo khoa đã không trách khỏi thiên lệch, chưa đảm bảo nguyên tắc cơ bản của việc cảm thụ và bình giá tác phẩm văn chương là phải xuất phát từ đặc trưng thể loại. Ở bài Người lái đò sông Đà, những câu hỏi gợi ý để tìm hiểu “cái tui tài hoa, uyên bác” của tác giả thường chiêm tỉ lệ lớn hơn so với những câu hỏi gợi ý để tìm hiểu về “cái tui trữ tình, giàu cảm xúc”; Hay như ở bài Ai đã đặt tên cho dòng sông thì chỉ có một câu hỏi trong tổng số sáu câu ở phần hướng dẫn học bài là hỏi về chất trữ tình của đoạn trích. Do đó, ta có thể thấy rằng, ngay cả ở những bộ sách cơ bản nhất trong nhà trường là sách giáo khoa và sách giáo viên, thì nội dung liên quan đến những vấn đề giảng dạy kí cũng chưa đạt được yêu cầu so với những thể loại khác, từ đó chúng ta có thể khẳng định thêm rằng, lĩnh vực nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí hiện nay đang còn bị bỏ ngỏ, chưa thật sự được quan tâm bởi những nhà nghiên cứu, những chuyên gia đầu ngành. Có thể nói rằng, tài liệu quan trọng đề cập một cách có hệ thống việc giảng dạy kí trong nhà trường phổ thông là hai cuốn giáo trình Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể do Trần Thanh Đạm chủ biên và cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương do Nguyễn Viết Chữ biên soạn. Các tác giả cho rằng khi dạy kí trung đại (cụ thể là dạy một phần nhỏ của tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác), “chúng ta cần khởi động tạo hứng thú cho các em từ cuộc đời của tác giả, ngòi bút vừa sắc sảo vừa thông minh hóm hỉnh của tác giả, đôi khi lại vừa khẽ khàng kín đáo vừa lạnh lùng ghi lại bức tranh hiện thực sống động về đời sống vương giả, kiêu sa mà tàn tạ, bạc nhược đến mức thảm hại nơi phủ chúa chốn kinh kì.
Khi phân tích tác phẩm nên tận dụng con đường theo bước tác giả, đọc kĩ những cảm nhận tinh tường trước các vấn đề sự kiện mà tác giả ghi lại. Nên dùng những câu hỏi chi tiết nghệ thuật, tập trung vào “đọc diễn cảm” những đoạn giàu thông tin nghệ thuật: chân thực, phải đạo mà cũng đầy chất hài hước”. [11, tr. 121]
Cũng theo thầy Nguyễn Viết Chữ, khi dạy tác phẩm kí hiện đại (tùy bút) như Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông “ta nên tận dụng con đường theo bước tác giả kết hợp với đọc diễn cảm, kết hợp giảng bình và câu hỏi hình dung, tưởng tượng, tái hiện”.
Do đó, người viết có thể nói rằng vấn đề về thể loại kí và việc giảng dạy tác phẩm kí ở trong nhà trường phổ thông dường như chưa được nhiều công trình nghiên cứu khoa học cũng như các khóa luận, luận văn tốt nghiệp và các bài báo đề cập hay có đề cập thì cũng

chỉ mang nội dung khái quát. Nhìn chung, nó thường làm cơ sở, nền tảng cho người giảng dạy tham khảo, nghiên cứu để góp phần mở rộng nội dung bài giảng của mình.
Từ những vấn đề nêu trên, người viết nhận thấy việc nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí đã được chú ý từ trước đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong chương trình thay sách diễn ra trong những năm gần đây, các tác phẩm kí cũng được đưa vào chương trình giảng dạy nhiều hơn trước thì vấn đề nghiên cứu phương pháp giảng dạy kí vẫn rất hiếm.
Qua những thực tế nghiên cứu và giảng dạy, người viết hi vọng những công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí về sau sẽ ngày càng nhiều và luôn luôn được đổi mới cập nhật, luôn luôn có sự gắn kết trong mối liên hệ biện chứng, bổ sung cho nhau. Nghĩa là giữa việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm kí cần đảm bảo tính liên kết, khoa học và hệ thống.
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiêu cứu
- Đề tài nghiên cứu những công trình nghiên cứu lý luận về thể loại kí
- Nghiên cứu những bài giảng, những phân tích của các chuyên gia trong nước về những tác phẩm kí.
- Đề tài tập trung đi vào khai thác và thực nghiệm những tác phẩm kí được dạy ở chương trình trung học phổ thông
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành đề tài này, chúng tui đã sử dụng những phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu lí luận về thể kí và phương pháp giảng dạy kí để nắm được đặc trưng và cách thức dạy học
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử vấn đề: nghiên cứu lịch sử của thể kí và lịch sử giảng dạy kí.
- Phương pháp điều tra và khảo sát:
+ Dự giờ lên lớp của một số giáo viên ở trường THPT để nắm bắt tình hình dạy học
văn nói chung cũng như dạy học các tác phẩm kí nói riêng.
+ Điều tra, khảo sát ý kiến của giáo viên và học sinh (bằng phiếu) trong việc tiếp
nhận thể loại kí trong nhà trường phổ thông và tình hình sử dụng các phương pháp trong quá trình dạy học tác phẩm kí.

+ Khảo sát sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo; các bài viết, bài phân tích của một số nhà giáo, nhà nghiên cứu về các tác phẩm kí trong chương trình ngữ văn ở trường phổ thông.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để xử lý các tư liệu và ý kiến nghiên cứu của các nhà giáo, nhà phê bình, nghiên cứu nhằm làm rõ các quan điểm trong việc giảng dạy tác phẩm kí.
- Phương pháp thống kê: dùng để thống kê ý kiến của giáo viên và của học sinh đã trả lời trên các phiếu điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thiết kế giáo án thực nghiệm nhằm tìm ra phương pháp tốt nhất cho việc giảng dạy thể loại kí trong nhà trường phổ thông.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương với các nội dung sau:
Chương 1: Đặc điểm của thể loại kí văn học
Chương 2: Tình hình dạy học tác phẩm kí ở nhà trường phổ thông
Chương 3: Phương hướng, biện pháp và thực nghiệm giảng dạy tác phẩm kí ở trường
trung học phổ thông

CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ LOẠI KÍ VĂN HỌC
1.1. Khái quát chung về thể kí
1.1.1 Khái niệm
Theo những nhà biên soạn Từ điển thuật ngữ văn học, kí là thể loại văn học có đặc
điểm “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu” và “Nhà văn viết kí luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm” [20, tr. 137]. Còn các tác giả của “Từ điển tiếng Việt” thì cho rằng, kí là loại “thể văn tự sự có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”[48, tr. 501]. Có thể nói, đây là những khái quát rất cụ thể về đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Kí là một loại hình văn học không thuần nhất. Đó là lĩnh vực văn học bao gồm nhiều thể loại, chủ yếu là văn xuôi ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự việc, con người có thật trong cuộc sống. Kí có cái hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của nó. Ở thể loại này, người ta đặc biệt quan tâm đến các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, những biểu hiện của đời sống có thực ngoài đời và đồng thời muốn bộc lộ trực tiếp cá tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm xã hội của tác giả. “Với thể loại kí, từ sự thôi thúc của cuộc sống mà tác giả có nhu cầu được công bố kịp thời đến những nhận xét, những đánh giá, những ý tưởng ... Kí ghi được rất rõ những nét mang dấu ấn của một sự kiện, của một thời kì, của một lớp người, của một vùng miền” [61, tr. 243)
Chính vì các tính chất nói trên mà thể loại kí có một phạm vi biểu hiện đời sống rất rộng lớn. Kí có thể thiên về ghi chép sự việc, hiện tượng như phóng sự, kí sự; có thể thiên về biểu hiện những cảm xúc trữ tình như tùy bút, tản văn;... Chính vì cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong nhìn nhận và khai thác các sự kiện của đời sống cũng như năng động phát huy vai trò sáng tạo của người cầm bút mà loại kí rất đa dạng và tác phẩm kí cụ thể luôn độc đáo.
Kí là một loại hình nghệ thuật, một hình thức hoạt động thực tiễn – tinh thần có tham vọng can dự trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời sống. Những người mới vào nghề thường tìm tới kí hay truyện ngắn. Nhưng các nhà văn chuyên nghiệp viết kí không phải là để thử bút, luyện nghề mà là do sự thôi thúc của đời sống buộc họ phải góp một tiếng nói kịp thời, phải phát biểu ngay một ý kiến nhằm thúc đẩy các hoạt động của xã hội. Nhà văn Lê Minh đã khẳng định một đặc điểm nổi bật, thuộc loại quan trọng nhất của kí mà từ lâu đã được mọi

người thừa nhận. Tìm mọi cách can dự trực tiếp vào đời sống, kí trở thành loại hình văn học thời sự, một thể văn xung kích theo sát các vấn đề nóng hổi, cấp bách của hiện thực mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. [62, tr. 361]
Kí văn học là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào hiện thực đời sống. Đó là những sáng tác văn học theo sát các vấn đề thời sự nóng hổi mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. Mặt khác, kí văn học còn là sự biểu hiện của những giá trị nhân sinh, là thông tin về sự thực của những quan niệm, tư tưởng. Nội dung đặc thù của kí đã chứa đựng trong bản thân nó cơ sở để “thông tin sự thực” chuyển thành “thông tin thẩm mĩ” và những dòng chữ ghi việc có thể phát triển thành tác phẩm văn chương. Nhưng cũng chính vì thế mà kí đúng là ghi chép sự việc, nhưng không phải ai cũng có thể viết kí. Muốn viết kí, người sáng tác phải vừa là nhà hoạt động xã hội năng nổ, xông xáo, vừa là nhà nghệ sĩ tài hoa và là nhà văn hóa có tư tưởng rộng lớn với vốn tri thức uyên thâm.
Về văn phong và ngôn từ nghệ thuật của kí thì theo Nguyễn Tuân: “Cách diễn đạt của thể kí cũng rất đa dạng và phức tạp” [61, tr. 251]. Có nhà nghiên cứu cho rằng: “đặc điểm văn học của kí lộ rõ nhất ở văn phong, ngôn từ nghệ thuật”. [61, tr. 251]
Ngôn từ trong tác phẩm kí chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả - người chứng kiến và tái hiện các hiện tượng đời sống. Đồng thời, tác giả luôn là người đối thoại, chứng kiến, ghi nhớ và ghi chép lại ngôn từ của các nhân vật khác. So với ngôn từ nghệ thuật của các thể loại khác, ngôn từ nghệ thuật của kí luôn có xu hướng mở rộng, thừa nhận, dung nạp nhiều hình thức và phong cách sáng tạo. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh hoạt về giọng điệu. Kí thường không chỉ trần thuật, mà cùng với trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong tác phẩm. Trước hết, ngôn từ nghệ thuật của kí hướng vào miêu tả phong tục qua những đặc điểm môi trường hay những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống. Vì thế nó vừa cụ thể, sinh động, đậm chất đời thường, vừa khái quát. Đặc điểm phổ biến này của các tiểu loại kí thường biểu hiện rõ nhất ở phóng sự, kí sự.
Do hướng tới những phạm vi thông tin và nhận thức, kí cũng đa dạng về kiểu loại và kết cấu. Các thể và biến thể của kí hình thành một cách tự nhiên trong quá trình vận động

của lịch sử văn học. Theo đó, người ta chia kí thành hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất thiên về tự sự gồm các thể chính như kí sự, phóng sự, nhật kí. Nhóm thứ hai nghiêng về trữ tình với các thể chính như: tùy bút, bút kí, tản văn ...
1.1.2. Vài nét về diện mạo thể kí ở Việt Nam
Về sự hình thành và xuất hiện của thể Kí, theo các tác giả biên soạn Giáo trình lý luận
văn học, tập 2 thì: “Kí vốn là tên gọi của một thể văn đã xuất hiện từ trước đời nhà Hán ở bên Trung Quốc bên cạnh các thể văn công vụ, hành chính khác. Đời Đường có nhiều tác phẩm kí dùng để ghi việc xen với lời bình. Kí ngày càng phát triển và được ý thức về đặc điểm thể loại.” [61, tr. 241]
Trong văn học cổ phương Đông, thể kí vốn có mặt từ thời Tiên Tần và về sau phân thành hai nhánh: có kí của sử và có kí của truyện. Trong một thời gian khá dài, kí là tiền thân của tiểu thuyết, có khi tên gọi kí cũng dùng cho tiểu thuyết hay một câu chuyện có kịch tính như Tây du ký, Tây sương ký, ...
Trong nền văn học Việt Nam, kí có từ rất lâu đời nhưng phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là từ thế kỷ XIX, khi đời sống dân tộc ngày càng nâng cao, kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học xé rào thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển và là thể loại phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại. Các tác phẩm kí giai đoạn này đều thiên về ghi chép, mang nặng tính chất lịch sử về các nhân vật, sông núi, đền chùa, ...
Các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí nhưng cho đến nay, giới lý luận văn học vẫn chưa đưa ra một hệ thống lý thuyết thống nhất cho thể loại văn học này. Nhà nghiên cứu Rubinxep cho rằng: “Về kí, thực tế là không thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể loại của nó”. Do cách tiếp cận không hoàn toàn giống nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến khác nhau trong việc xác định khái niệm và đặc trưng của kí.
Sự phức tạp của thể kí còn có căn nguyên từ sự năng động, linh hoạt của thể loại này trong việc phản ánh hiện thực. “Kí không phải là thể loại thuần nhất mà bao gồm nhiều hình thức ghi chép và biểu hiện cuộc sống” như: kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí, du kí, nhật kí, tuỳ

bút, bút kí chính luận ... mỗi tiểu loại này tuy có chung những đặc điểm chủ yếu nhất của kí song vẫn có những điểm riêng để xác định. [21, tr]
Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, hành động, và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh, gợi không khí. Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị của kí là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả.
Có thể nói, kí cũng như các loại hình nghệ thuật khác, cũng trải qua hai giai đoạn chính là kí thời trung đại và kí thời hiện đại.
Kí thời trung đại cũng giống như truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, chủ yếu được viết bằng chữ Hán dưới hình thức các văn thể Trung Hoa. Do đặc trưng thể loại, phạm vi đề tài của kí bị thu hẹp rất nhiều so với truyện nên kí thời kì này không phát triển mạnh và có những thành tựu như truyện. Trong giai đoạn từ thế kỷ X – XIV, về cơ bản kí vẫn thuộc văn học chức năng, nằm trong khuôn khổ văn học chức năng và gồm hai loại chính là văn khắc và tự bạt. Sang đến giai đoạn thứ hai, từ thế kỉ XV – XVII, cùng với sự bùng nổ về tác phẩm sưu tầm cũng như sáng tác trên mọi lĩnh vực, từ thơ ca trữ tình đến văn xuôi tự sự, từ văn học chữ Hán đến văn học viết bằng chữ Nôm, từ văn học chức năng đến văn học nghệ thuật đã làm cho thể văn tự bạt phát triển theo. Kí dưới dạng tự bạt đến hậu kì trung đại tách dần ra thành môn khoa học riêng: nghiên cứu – phê bình – lí luận văn học và chia tay văn xuôi tự sự. Song nó đã đặt nền móng cho loại hình kí nghệ thuật: tự bạt là tiếng nói cá nhân người cầm bút; khi vai trò cá nhân chưa trực tiếp bộc lộ thì thể kí đích thực chưa thể ra đời.
KẾT LUẬN
Phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy hoc văn nói riêng là một trong những thành tố quan trọng của qúa trình dạy học. Nếu không có phương pháp hoạt động phù hợp thì sẽ không thể thực hiện mục đích, nhiệm vụ của việc dạy và học, học sinh không thể nắm được nội dung tài liệu học tập đã đưa ra.
Bản chất của một giờ dạy học văn thành công có thể nói đó chính là việc quá trình dạy học ấy sẽ giúp học sinh biết cảm thụ tác phẩm đã học, tức là tự mình ngẫm nghĩ, khám phá để thấm thía cái hay cái đẹp của tác phẩm. Thông qua giờ dạy tác phẩm văn học, giáo viên phải định hướng cho học sinh biết cách rèn luyện tư duy, phương pháp suy nghĩ, phát hiện những cái hay cái đẹp của tác phẩm trong quá trình học. Bởi nhìn một cách tổng quát, việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay là hướng tới phát huy vai trò chủ động tích cực của người học, chống lại thói quen học tập thụ động, khắc phục lối dạy truyền thống truyền thụ một chiều các kiến thức có sẵn. Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác giữa thầy và trò, sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học sẽ tạo cho người học lòng ham học, say mê đọc sách, tìm kiếm kiến thức để làm giàu trí tuệ và tâm hồn. Những hoạt động cơ bản này được thực hiện gắn liền với việc vận dụng phương pháp, biện pháp dạy học cụ thể với từng thể loại tác phẩm.
Từ yêu cầu đặc trưng của môn Ngữ văn, từ thực tế đổi mới chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn và việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, chúng tui mong muốn tìm ra được phương pháp dạy học tác phẩm kí hiệu quả nhất thông qua nghiên cứu đề tài luận văn Thể loại kí và việc giảng dạy tác phẩm kí ở trong nhà trường phổ thông.
Ngoài những vấn đề lí luận về thể kí nói chung và phương pháp giảng dạy tác phẩm kí nói riêng, luận văn đã cố gắng đưa ra những phương hướng, biện pháp giảng dạy tác phẩm kí theo đặc trưng loại thể và đặc biệt chú trọng đến tính thực hành với những bước đi cụ thể cho giáo viên và học sinh về:
- Thiết kế giáo án và cách tổ chức những hoạt động dạy – học theo hướng kết hợp những ưu điểm của phương pháp giảng văn truyền thống với các phương pháp dạy học mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Thaobe

New Member

Download miễn phí Luận văn Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông





Hiện nay, với tinh thần dạy học theo nguyên tắc chủ động tích cực, thì khi dạy tác
phẩm kí, người giáo viên cần được cung cấp đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và đặc
biệt là sách tham khảo (69,2%), khi dạy thì cũng không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ
yếu dạy học sinh cách học, cách suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề (57,7%). Tuy nhiên, họ cho
rằng những định hướng kiến thức và phương pháp trong sách giáo viên chưa đầy đủ, chưa rõ
ràng (50%), phần “tiểu dẫn” trước mỗi bài học về tác phẩm kí là cần thiết nhưng sách giáo
cũng chưa cung cấp đủ thông tin cho học sinh (69,2%). Ở phần khảo sát này, chúng ta cũng
có thể thấy được thực tế là việc dạy và học tác phẩm kí ít được giáo viên và học sinh quan
tâm, hứng thú khi học là vì những tác phẩm kí thường không nằm trong những bài trọng tâm
để đi thi (38,5%) nên giáo viên thường chỉ dạy cho qua, không chú trọng đến thể loại này
(15,4%). Qua phiếu khảo sát này, chúng ta thấy được cũng có một bộ phận giáo viên hết sức
cố gắng giúp cho học sinh hiểu được một cách nhanh nhất những tác phẩm kí bằng cách cho
học sinh xem băng, đĩa ghi hình, ghi âm, tranh ảnh minh họa trong quá trình giảng dạy của
mình. Với những cố gắng ấy, người giáo viên cũng đồng ý rằng mức độ hiểu tác phẩm của
học sinh nằm trong khoảng từ 50 – 75%, tùy từng trường cũng như năng lực cảm thụ văn học
của mỗi học sinh.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

n để tạo cảm xúc, giáo viên chủ động nêu vấn đề, gợi vấn đề, gợi ý về câu trả lời cho học
sinh (trên 56%). Về vấn đề cảm giác của em có năng nề không thì ta có thể thấy có hai ý kiến
trái chiều nhưng gần như tương đương nhau về việc này, một nửa thì cho rằng giờ học văn
nặng nề, nhưng nửa kia thì lại không đồng ý như vậy. Tuy nhiên, riêng các em lớp 12 thì số
lượng trả lời giờ văn không nặng nề và khó khăn lại chiếm hơn 72%. Các em cũng tự đánh
giá về mức độ hiểu tác phẩm kí của mình là từ 50% đến 75%, kết quả gần như trùng khớp
với ý kiến của những giáo viên được hỏi. Chúng ta có thể thấy được mong muốn của học
sinh với thầy cô là cho học sinh được tự do bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của các em (trên 40%),
các câu hỏi trong giờ giảng văn cần đặt sáng rõ và dẫn dắt cụ thể (trên 38%) và cần chú
ý nhiều đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt của học sinh (trên 24%). Thế nên, các em đã
nhận thức được rằng, để đạt được điểm cao đối với môn Văn thì chính các em phải hiểu được
tác phẩm, có kĩ năng – phương pháp làm bài (trên 42,9) và đọc kĩ văn bản, diễn đạt theo ý
riêng có sáng tạo (trên 33%)
2.2.2.2 Những hạn chế
Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng đứng trước yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, việc dạy học văn nói chung cũng như việc dạy tác phẩm kí nói
riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập so với nhiệm vụ chung của ngành giáo dục.
Một trong những biểu hiện rõ nhất của hạn chế là vấn đề dạy học của giáo viên. Trong
quá trình giảng dạy, giáo viên chưa đi ra khỏi con đường mòn là chú trọng cung cấp kiến
thức đơn thuần mà không quan tâm nhiều đến phương pháp. Lẽ ra, trong giờ học văn, học
sinh phải được phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, được tự mình khám phá cái hay, cái đẹp
của tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ, để có thể phát triển năng lực văn học và trưởng thành về
trí tuệ, về tâm hồn và nhân cách, thì ngược lại các em phải lắng nghe, ghi chép những lời
thuyết giảng của giáo viên một cách máy móc, khô khan. Nhìn chung, công việc của giáo
viên phần nhiều là tìm kiếm, phát hiện cái hay, cái đẹp, quy chúng lại thành những nhận định
chung chung và cố gắng truyền thụ cho học sinh khối lượng kiến thức đó một cách nhạt nhẽo,
nhàm chán, rồi kiểm tra kết quả đó bằng con đường tái hiện. Ngay cả những bài giảng mang
tính khơi gợi, kích thích sự sáng tạo của học sinh vẫn không đi ngoài phương pháp giảng dạy
cũ kĩ này. Đó cũng là lí do nhiều năm gần đây đa số học sinh có biểu hiện chán học văn, đến
với giờ giảng văn như là một sự bắt buộc. Đó là chưa kể đến một bộ phận giáo viên đến nay
vẫn còn tỏ ra tâm đắc với giáo án mẫu, những bài soạn giảng mẫu và sử dụng chúng một
cách máy móc, không có sự sáng tạo.
Cho đến nay, vẫn còn không ít trường hợp giáo viên dạy học theo lối đọc chậm cho
học sinh viết, thậm chí còn ghi lại bài học lên bảng cho học sinh chép. Học sinh không được
đến với tác phẩm bằng sự nỗ lực vận động của cá nhân, không được tự giác và tự nhiên cảm
thụ tác phẩm, mà kết quả học tập chỉ thu nhận được bằng sự tiếp thu kết quả tìm tòi, phát
hiện của giáo viên. Đó là một sai lầm cơ bản của giáo viên do không nhận thức đúng đắn vai
trò cảm thụ của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Dường như trong nhiều trường
hợp, giáo viên chỉ quan tâm đến văn bản. Ngoài những yếu tố thuộc về văn bản, đặc biệt là
nhu cầu tự khám phá, tự cảm thụ của học sinh thì chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Vì thế, học sinh luôn phải là “người lắng nghe” chứ không là “người nhập cuộc”. Quá trình
giảng văn trở nên phiến diện, một chiều, trong đó tác phẩm văn học là công cụ chủ yếu của
giáo viên trong quá trình dạy học. Do đó dẫn tới việc học sinh hiện nay gần như bị tê liệt về
cảm xúc, về hứng thú học tập và trở nên thụ động, lười suy nghĩ. Có thể thấy đôi khi gặp
những bài giảng thầy dạy say sưa, thể hiện được cảm nhận tinh tế qua ngôn từ giàu tính cảm
xúc, và trò cũng say sưa lắng nghe, nhưng nếu phải xác định nội dung khái quát của tác
phẩm thì các em lại lúng túng, có lúc trả lời sai. Như vậy, xét đến cùng, dù cho tiết dạy có
công phu, giờ dạy học tác phẩm văn chương cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Mặt hạn chế khác của tình hình dạy học văn nói chung cũng như dạy học tác phẩm kí
nói riêng là giáo viên chưa thật sự chú ý đặc trưng loại thể của tác phẩm văn học nên chưa có
cơ sở chắc chắn để đánh giá, phân tích tác phẩm. Vì vậy, không thiếu những giờ dạy học đã
diễn ra khá bài bản, đảm bảo đúng một quy trình giờ dạy từ mở đầu cho đến kết thúc, nhưng
cuối cùng chính người dạy cũng chưa thật sự hài lòng về nó, bởi họ chưa sử dụng đúng chìa
khóa loại thể để mở đúng cánh cửa chứa ý đồ sáng tạo của nhà văn trong tác phẩm văn học.
Do đó, dù cho tiết dạy đã được thực hiện theo đúng quy trình của nó nhưng giáo viên vẫn
không thể khai thác hết giá trị tác phẩm. Nhiều trường hợp giáo viên dạy tác phẩm lịch sử
cũng như dạy văn xuôi, dạy cổ tích giống như dạy truyện ngắn, dạy ngụ ngôn không khác gì
truyện cười…
Thiếu sót phổ biến hơn nữa là trong giờ dạy học văn hiện nay, giáo viên quan tâm
chưa đúng mức đến phần hướng dẫn học tập và chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh. Nhiều
trường hợp giáo viên chỉ tranh thủ vài giây cuối cùng của giờ học để dặn dò một cách sơ sài,
vắn tắt. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng học sinh lười
tư duy, lười suy nghĩ, không phát huy khả năng tự học, tự đọc hiểu và cảm thụ tác phẩm văn
chương.
Ngoài ra, khâu ra đề kiểm tra, sửa bài và chấm điểm của giáo viên cũng chưa được
thực hiện theo quy trình hợp lí, không ít đề bài có yêu cầu quá cao hay thiếu chính xác về
mặt khoa học, diễn đạt không rõ ràng trong sáng. Khó khăn về phía học sinh là không hiểu
được yêu cầu của đề, hay hiểu đề nhưng không thể làm sáng tỏ những yêu cầu quá cao, quá
khó khăn đối với trình độ người học. Bên cạnh đó, việc sửa bài cho học sinh còn nhiều thiếu
sót, giáo viên phần lớn chỉ sửa bài chung chung trên lớp, còn lời phê cho bài làm cụ thể thì
hết sức sơ sài, không chỉ ra điểm mạnh và mặt yếu, cũng không gợi ý hướng khắc phục thế
nào. Thậm chí nhiều bài làm chỉ được đánh giá bằng điểm số, ngoài ra không có nhận xét và
sửa chữa gì thêm. Và phần lớn điểm số cho bài làm của học sinh cũng chỉ được giữ ở mức 4,
5, 6 điểm và rất hiếm bài đạt điểm 9, 10. Mặc dù có nhiều bài làm cũng rất xứng đáng được
những điểm này. Hậu quả là học sinh càng ngày càng lười học tập, bởi các em không biết
đâu là chỗ yếu kém của mình để cố gắng khắc phục và dù có cố gắng nhiều hơn nữa thì kết
quả cũng không có gì thay đổi.
Nhìn chung, việc đổi mới phương pháp dạy học tuy đã được
Em có thể xin link tài liệu được không ạ. Em Thank anh/ chị nhiều lắm ạ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top