Download miễn phí Tiểu luận Thi pháp tiểu thuyết truyền thống phương tây và thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi
Sau năm 1975, đất nước chuyển từ trạng thái thời chiến sang thời bình. Chiến tranh là một trạng thái đời sống bất thường, trái khoáy, phi lý đối lập với trạng thái sống, suy nghĩ, cảm xúc bình thường của con người. Từ đó hình thành nên một hệ thống giá trị thời chiến, văn hóa thời chiến, những tâm lý, thói quen mang rõ dấu hiệu của thời chiến. Mục đích cao nhất là độc lập, tự do. Còn những gì không có ích trực tiếp đều tạm thời bị loại bỏ. Sau năm 1975, đất nước hòa bình nhưng lâm vào cuộc khủng hoảng khác, khủng hoảng sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, phơi lộ những bi kịch của đói nghèo. Trước tình hình đó, đổi mới là một yêu cầu sống còn, phá bỏ những cái cũ, lạc hậu, công cuộc đổi mới thật sự bắt đầu từ năm 1986 với điểm tựa là tinh thần dân chủ và phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng, nói thật.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-29-tieu_luan_thi_phap_tieu_thuyet_truyen_thong_phuong.rk6JjqJ8Ri.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-57262/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
Đại học quốc gia Hà NộiTrường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa văn học
---------------
Môn : Thi pháp tiểu thuyết truyền thống phương tây và thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi
Giảng viên : PGS.TS Nguyễn Trường Lịch
Học viên thực hiện : Nhóm 4
Lớp K51 : Cao học lý luận văn học
Hà Nội, tháng 11-2007
1. Tiểu thuyết có khủng hoảng hay không?
Sự khủng hoảng của bất kỳ một thể loại nào đều phải xét đến ba yếu tố: đội ngũ sáng tác, chất lượng tác phẩm và thị hiếu người đọc.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã khiến con người có những bước tiến vượt bậc. Nhịp điệu cuộc sống trở nên gấp gáp hơn. Thời gian được sử dụng để làm rất nhiều việc mà dung lượng của một cuốn tiểu thuyết thường lớn, dẫn tới tâm lý “ngại đọc”. Đó chính là sự khủng hoảng về người đọc. Chất lượng người đọc cũng là điều đáng bàn. Có một nghịch lý nào không khi thời đại này là thời đại của kinh tế tri thức mà văn hóa đọc lại giảm sút? Báo chí, truyền hình, đặc biệt là internet ra đời đã làm thay đổi cách tiếp nhận thông tin của con người. Khối lượng thông tin lớn hàng ngày đến với chúng ta thật lớn, nhưng chưa được chọn lọc, đồng thau lẫn lộn. Những cuốn sách chất lượng thấp dễ làm vùn mòn năng lực tiếp nhận những tác phẩm văn chương có giá trị ở người đọc. Người ta dễ đọc, dễ quên và dường như cũng chẳng có thời gian để suy ngẫm về giá trị, tư tưởng của tác phẩm văn hóa.
Ngôn ngữ đời sống ngày nay cũng đã thay đổi nhiều. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết nói riêng và ngôn ngữ văn chương nói chung nhiều khi không còn phù hợp với một bộ phận công chúng. Nhiều người đã phân vân về việc khó tìm được cốt truyện mới. Đây là vấn đề chung của các ngành nghệ thuật khác như điện ảnh, sân khấu. Song điều quan trọng nhất đối với văn nghệ không phải là nói cái gì, mà là nói như thế nào. Không phải không có những tìm tòi mới về kỹ thuật viết văn nhưng dường như vẫn còn chưa đủ để khám phá đời sống đa diện con người hiện đại với biết bao phức tạp, biết bao cung bậc và biến đổi.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của ngành xuất bản, tiểu thuyết vẫn dàn hàng ngang trên giá sách song rất khó có thể tìm được một cuốn “để đời?” Nguyên nhân không đâu khác ngoài bản thân các nhà văn. vấn đề “tài” và “tâm” của người cầm bút lại đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.
Vậy, một câu trả lời thành thực cho vấn đề đặt ra là sự khủng hoảng của tiểu thuyết là có thật. Đó là sự khủng hoảng trên cả ba phương diện: đội ngũ sáng tác, chất lượng tác phẩm và thị hiếu người đọc.
Nhìn rộng ra thế giới, ta cũng thấy tình trạng chung. Nhà văn Nga Sôlôkhốp chắc chắn rằng tiểu thuyết không chết. Câu hỏi còn hay không tiểu thuyết với các nhà văn Xô Viết cũng đơn giản như câu hỏi “gieo hay không gieo lúa mì “đối với người nông dân. Còn Carpenchier lại khẳng định sự khủng hoảng của tiểu thuyết tâm lý: “Đúng là có khủng hoảng nhưng đó là khủng hoảng của tiểu thuyết tâm lý đã để lộ dấu hiệu tàn lụi vào những năm 20 là khủng hoảng của những tiểu thuyết dựa trên xung đột tình cảm đã xáo mòn. Tuy nhiên cũng có những ý kiến bi quan hơn “Tiểu thuyết không chết. Nó chỉ bị chôn (Salman Rushdie).
Nhà văn Naipaul đã chỉ ra nguyên nhân: “Tiểu thuyết đã chết. Điều đó muốn ám chỉ rằng các nhà văn chuyên nghiệp hiện nay đều giống như khuôn đúc sẵn về kết cấu, thiên thuyện, về nhân vật, sự kiện và tuân theo đó một mớ ngôn ngữ từ rẻ tiền”. Vậy để phục sinh cho tiểu thuyết thì không còn cách nào khác là chính các nhà văn phải tự đổi mới mình, tác phẩm từ đó cũng đổi mới theo. Sau đó mới tính đến chuyện sao để những tác phẩm ấy đến được với người đọc, và làm thay đổi một chút gì đó trong tư tưởng quan niệm của họ.
2. Đánh giá tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ 1976 đến nay.
Trước hết, có thể liệt kê ra hàng loạt tiểu thuyết ít nhiều gây được sự chú ý trong ba mươi năm trở lại đây (sắp xếp không theo trật tự thời gian, không phụ thuộc vào tiếng tăm của tác giả: Thủy hỏa đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Mối tình hoang dã (Trần Huy Quang), mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hứng) Lọc rừng (Trung Trung Đỉnh), Ăn mày dĩ vãng, Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Sóng ở đáy sông, Thời xa vắng (Lê Lựu), Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Lão Khổ, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), cháy đến giọt cuối cùng (Nguyễn Thị Anh Thư), Những đứa trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Những đứa con bất trị (Triệu Huấn), Người cha ở trên đời (Nguyễn Tham Thiện Kế), Đất nóng (Nguyễn Hồng Thái), (Quỳnh Linh), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Bão biển (Chu Văn), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mẫn và tui (Phan Tứ), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Thanh)…
2.1. Bối cảnh lịch sử và những tiền đề văn hóa thẩm mĩ của quá trình đối với văn hóa Việt Nam sau 1975.
Sau năm 1975, đất nước chuyển từ trạng thái thời chiến sang thời bình. Chiến tranh là một trạng thái đời sống bất thường, trái khoáy, phi lý đối lập với trạng thái sống, suy nghĩ, cảm xúc bình thường của con người. Từ đó hình thành nên một hệ thống giá trị thời chiến, văn hóa thời chiến, những tâm lý, thói quen mang rõ dấu hiệu của thời chiến. Mục đích cao nhất là độc lập, tự do. Còn những gì không có ích trực tiếp đều tạm thời bị loại bỏ. Sau năm 1975, đất nước hòa bình nhưng lâm vào cuộc khủng hoảng khác, khủng hoảng sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, phơi lộ những bi kịch của đói nghèo. Trước tình hình đó, đổi mới là một yêu cầu sống còn, phá bỏ những cái cũ, lạc hậu, công cuộc đổi mới thật sự bắt đầu từ năm 1986 với điểm tựa là tinh thần dân chủ và phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng, nói thật. Về mặt kinh tế- đất nước đã chuyển từ cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn chương nghệ thuật cũng bị quy định bởi kinh tế. Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế mà ở đó giá trị cá nhân lên ngôi. Quy trình sản xuất theo kế hoạch không phải là chỗ đích thực khẳng định giá trị cá nhân, ý thức cá nhân được kích thích phát triển, in dấu vào trong văn học. Văn học chuyển từ tiếng nói của cái ta cộng đồng, phát ngôn nhân danh cộng đồng sang tiếng nói của cá nhân, phát ngôn nhân danh kinh nghiệm cá nhân. ý thức cá tính được kích thích phát triển, in dấu vào trong văn học. Nếu như văn học thời chiếu coi trọng tính cộng đồng thì văn học thời đất nước đổi mới sẽ coi trọng những ý kiến cá nhân, coi trọng tư tưởng riêng của mỗi nhà văn. Văn học chuyển dần từ truyền thống miêu tả trình bày hiện thực, phản ánh bức tranh hiện thực sang một xu hướng mới là nghiền ngẫm, suy nghĩ về hiện thực, bày tỏ thái độ, sự đánh giá về hiện th...