Khóa luận Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ

Download miễn phí Khóa luận Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ





Sau giải phóng miền Nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn chiến tranh và một số năm tiếp sau đó. Nhưng việc duy trì quá lâu một cơ chế bao cấp của Nhà nước như vậy đã nảy sinh mâu thuẫn, rối loạn sâu sắc trong việc phát triển kinh tế đất nước. Với cơ chế tập trung bao cấp, trong một thời gian dài, thị trường nói chung và Thị trường Ngoại hối (TTNH) nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành và phát triển. Cho đến năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các yếu tố thị trường mới được hình thành và phát triển.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thay thế Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành theo Nghị định số 102/CP ngày 6/7/1963 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi Nghị định 161 ra đời, ngày 15/3/1989, NHNN Việt Nam có Thông tư số 33-NH/TT hướng dẫn thi hành. Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 và Thông tư 33 có thể nêu ra như sau: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hay dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Trung ương Việt Nam cho phép”.
Như vậy, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của TTNH có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Tuy nhiên, về tỷ giá (yếu tố quan trọng nhất của TTNH) trong giai đoạn này vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của VND và thị trường tự do. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0,5%.
Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một TTNH chính thức hoàn chỉnh hơn để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan với quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 107- NH/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành Quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ (TTGDNT) đã được thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội lần lượt vào tháng 8 và tháng 11/1991.
Việc thành lập hai TTGDNT là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của TTNH Việt Nam ngày nay. Thông qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế.
Nếu như trước đó, tỷ giá chính thức VND được NHNN tính toán dựa trên cơ sở kinh tế mang tính chất tĩnh chưa phản ánh quan hệ cung cầu và các yếu tố thị trường khác thì từ khi hai Trung tâm ra đời, tỷ giá chính thức của VND được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch tại hai Trung tâm. Với lý do này, tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về cung cầu ngoại tệ trên TTNH, rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Từ đây, có thể nói TTNH có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do.
Sau một thời gian đi vào hoạt động, hai TTGDNT đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, tạo ra cách kinh doanh giao dịch mang tính thị trường, góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nhu cầu phát triền kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai TTGDNT đã bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn quốc gia, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra Quyết định số 203/QĐ-NH9 ngày 20/9/1994 về việc thành lập Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng và Quyết định số 203/QĐ-NH13 ngày 20/9/1994 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng (TTNTLNH), đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong quá hình thành và phát triển của TTNH Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế.
TTNTLNH ra đời với mục đích nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các NHTM, đồng thời làm cơ sở triển khai TTNH hoàn chỉnh trong tương lai. Mặt khác, thông qua TTNTLNH, NHNN sử dụng Quỹ điều hoà ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện chính sách tỷ giá của quốc gia.
Tham gia giao dịch trên TTNTLNH chỉ bao gồm các NHTM được phép kinh doanh ngoại hối và NHNN. Như vậy, NHNN đã không trực tiếp mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế; đồng thời các tổ chức và cá nhân muốn mua bán ngoại tệ phải giao dịch trực tiếp với NHTM, chứ không phải tại TTNTLNH. Để thực hiện các giao dịch trên TTNTLNH một cách nhanh chóng thì NHTM phải có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng tốt với NHNN.
2. Những kết quả đạt được
2.1. Về diễn biến tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá
Có thể nói, tỷ giá là nột nhân tố đặc biệt quan trọng kích thích sự phát triển của TTNH. Tỷ giá cũng chính là chỉ số phản ánh trung thực nhất quan hệ cung- cầu về ngoại tệ trên TTNH. Thông qua công cụ tỷ giá, NHNN có thể nắm bắt chính xác tình hình thị trường để từ đó có những can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo hoạt động của TTNH luôn diễn ra ổn định, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán từ đó thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Từ cuối năm 1998 trở về trước, cơ chế điều hành tỷ giá được thực thi là hàng ngày NHNN công bố tỷ giá chính thức, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ chủ động quy định tỷ giá mua bán, trao đổi cụ thể của mình trong biên độ 5%, 7%, 10% so với tỷ giá chính thức của NHNN.
Song từ đầu năm 1999, NHNN đã chính thức bỏ cơ chế điều hành tỷ giá theo kiểu bao cấp như trước đây, chuyển sang chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên thị TTNTLN, thay vì công bố tỷ giá chính thức như trước. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với USD không được vượt quá 0,1% so với tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Nhờ bước cải cách có ý nghĩa lớn này, năm 1999, thị trường ngoại...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top