Download Tiểu luận Thuận lợi và khó khăn để phát triển logistic tại Việt nam
Thực trạng phát triển dịch vụ logistics trong 10 năm qua
1.Giai đoạn 2001-2005: hoạt động giao nhận kho vận, đặc biệt là giao nhận vận tải quốc tế đã có những bước chuyển biến đáng kể, gần như các công ty Nhà nước chiếm ưu thế và làm đại lý cho các công ty giao nhận vận tải có quy mô toàn cầu nước ngoài. Tuy vậy, khối lượng thuê ngoài dịch vụ giao nhận kho vận chỉ ở mức khoảng 25%, phần còn lại các doanh nghiệp chủ hàng tự tổ chức đầu tư phương tiện hay tự làm.
_Là một ngành kinh doanh còn mới mẻ, khó cạnh tranh bình đẳng với các công ty nước ngoài nên ngành giao nhận kho vận là một trong những ngành kinh doanh được Nhà nước bảo hộ và khuyến khích phát triển.
_Cơ cấu hàng chỉ định (nominated) và không chỉ định trong vận tải ngoại thương mất cân đối trầm trọng bắt nguồn từ tập quán mua CIF bán FOB, điều này dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khai thác vận tải và bảo hiểm được từ 10% đến 18% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu.
2.Giai đọan 2006-2010: thị trường dịch vụ logistics phát triển và chuyển biến mạnh mẽ hơn với khoảng 1.200 (2) doanh nghiệp hoạt động dịch vụ logistics, số vốn và tay nghề hạn chế. Đối trọng là các công ty đa quốc gia có bề dày kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ và uy tín cả trăm năm. Rõ ràng, “miếng bánh” ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đang thuộc về các công ty nước ngoài với phần lớn nhất: 70%.
_Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra vào giữa năm năm 2011 ,Việt Nam cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Uganda, Philippines và Nam Phi có sự phát triển kinh tế ấn tượng nhất trong nhóm các nước đang phát triển. Trong đó, về bảng xếp hạng logistics (LPI), Việt Nam xếp thứ 53 trong tổng số 155 nền kinh tế. Điều này chứng tỏ Việt Nam đang dần cải thiện một cách toàn diện việc phát triển hệ thống logistics bao gồm kho vận, giao nhận, vận chuyển và phân phối.
_Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics) sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn
II.Những thuận lợi để ngành logistic tại VN
Chi phí về logistics chiếm 10% giá trị buôn bán của hàng hóa lưu thông trong nước và chiếm 40% đối với hàng hóa mua bán trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, VN có rất nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp logistics, làm tăng GDP cho đất nước.
1.Hội nhập kinh tế: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đây là cơ hội để tất cả các ngành kinh tế trong đó có logistics phát triển,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia vào thị trường quốc tế.
_VN đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ đưa VN thành một quốc gia mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
Kể từ khi Luật Thương mại có hiệu lực, các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực logistics đã phát triển nhanh chóng. Tính đến nay đã có hơn 600 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải và logistics. Các doanh nghiệp này đã có những đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế và đang từng bước hội nhập, trưởng thành về mọi mặt. Với tốc độ này trong vài năm tới đây số lượng doanh nghiệp kinh doanh trong ngành logistics có thể sẽ vượt cả Thái Lan (1.100 công ty); Singapore (800 công ty), đồng thời chất lượng dịch vụ cũng như năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hoàn thiện và nâng cao.
_ Vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể là nguốn vốn ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho VN ngày càng tăng
Năm 2010, Việt Nam thể hiện sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và quốc tế với kim ngạch xuất khẩu hai chiều đạt khoảng 150 tỉ USD/năm, tương đương 160% tổng GDP quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế có uy tín như AFTA, ASEM, APEC, WEF và các khuôn khổ hợp tác khu vực tiểu vùng Mekong. Nhiều thỏa thuận kinh tế quan trọng cung cấp nguồn FDI và ODA từ Mỹ, EU, Nhật Bản đã được thực hiện cho thấy triển vọng phát triển của thương mại Việt Nam trong dài hạn. ADB đánh giá tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 và 2011 vẫn đạt mức tương ứng là 6,5% và 6,8%.
_ Lĩnh vực dịch vụ đang được quan tâm phát triển, hoạt động logistics đã bắt đầu thu hút sự chú ý của các cấp quản lý Nhà nước cũng như của các DN trong và ngoài nước
_ Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Đây chính là một trong những điều kiện tiên quyết để ngành công nghiệp logistics VN phát triển, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.”
2. Việt Nam có diều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi
_VN có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế,nằm ở khu vực chiến lược trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển trải dài trên 2.000 km, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông là tiền đề khả quan để phát triển logistics
_Giống như các quốc gia trong khu vực có bờ biển dài như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Phillipin, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa trên tuyến vận tải đường biển thông với nhiều hướng từ Trung Đông, Châu Âu, Châu Mỹ đến Nhật Bản, Nga. Với khoảng 100 cảng dài đều từ Bắc vào Nam, Việt Nam có điều kiện giao thông thuận lợi để đón hàng từ các quốc gia láng giềng gồm Lào, Campuchia, Trung Quốc đi quốc tế.
Trong thống kê của Ngân hàng thế giới ( Worldbank ) về khả năng cung cấp dịch vụ logistics của các quốc gia, Việt Nam được đánh giá không thua kém so với các nước trong khu vực về khả năng vân tải quốc tế (Internationl shipment).
_Những năm gần đây, Chính Phủ Việt Nam đã bắt đầu quan tâm xây dựng cảng nước sâu đón tàu trọng tải lớn và đầu tư hệ thống giao thông đường bộ, kho bãi một cách quy mô và chuyên nghiệp. Sự đi vào hoạt động của Cảng Quốc tế Cái Mép – Thị Vải năm 2009 với khả năng đón trọng tải 160.000 DWT chạy thẳng tới các cảng Châu Mỹ, Châu Âu không chỉ thúc đẩy xuất nhập khẩu nội địa mà còn đặt nền tảng đầu tiên cho sự hội nhập cho ngành logistics Việt Nam vào với sân chơi quốc tế.
3. Logistics - Ngành kinh doanh trẻ có tốc độ tăng trưởng cao.
_Xuất phát điểm từ sự phát triển tương đối muộn với một hệ thống cơ sở hạ tầng ( giao thông vận tải, cầu cảng, kho bãi ) thiếu đồng bộ và dịch vụ chưa hoàn chỉnh, nên khi nhu cầu kinh tế đòi hỏi, ngành logistics đã có sự đầu tư phát triển khá nhanh. Trong khi thương mại quốc gia tăng mức trung bình là 13%/ năm trong thập niên qua, thì ngành logistics của Việt Nam đã đi trước một bước với tốc độ tăng trưởng đầu tư là 20%/ năm. Quy mô thị trường logistics năm 2009 đạt 20 tỷ USD/năm. Đây được xem là con số tương đối nhỏ so với các quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, thay vào đó, ngành logistics Việt Nam lại có tốc độ tăng trưởng cao nhất và được đoán sẽ tiếp tục duy trì ở mức 20% - 25% trong vòng 5 năm tới.
_Trong quy hoạch phát triển vận tải biển từ nay tới năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, dịch vụ logistics cũng được nhấn mạnh với dịch vụ vận tải đa phương tiện chất lượng cao, hướng tới dịch vụ trọn gói (3PL, 4PL) và mở rộng ra nước ngoài để đáp ứng nhu cầu hội nhập.
_Ở Việt Nam tiềm năng phát triển dịch vụ logistics còn rất lớn. Dự tính trong 10 năm tới, kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 200 tỷ USD. Năm 2010, sản lượng vận tải cả nước đạt 714,8 triệu tấn hàng hóa, 223,8 tỷ tấn/km (tăng 12,4% về tấn vận chuyển và 10,5% tấn/km). Lượng hàng container thông qua cảng biển tăng 16,9%, hàng lỏng tăng 24%, hàng quá cảnh tăng 6%, vận tải hàng không tăng 20% về hành khách và 30% về hàng hóa so với năm2009.
III.Những khó khăn phát triển ngành logistics tại Việt Nam.
1.Doanh nghiệp:
_Quy mô hầu hết các doanh nghiệp dịch vụ logistics là vừa & nhỏ, Thiếu vốn và công nghệ luôn là hai yếu tố khiến các doanh nghiệp Việt Nam yếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thiếu kinh nghiệm, tính chuyên nghiệp và gắn kết đồng bộ trong hoạt động, chủ yếu do các Cty cảng biển và trong ngành hàng hải cung cấp dịch vụ logistics.
_Vẫn chưa có doanh nghiệp nào thực sự đủ tầm kinh doanh chuỗi các hoạt động logistics mà chỉ cung cấp dịch vụ cơ bản, nên chỉ nhận tham gia một số công đoạn trong chuỗi cung ứng dịch vụ logistics hay cho các công ty logistics nước ngoài.
_Tầm bao phủ hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ trong phạm v
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Thực trạng phát triển dịch vụ logistics trong 10 năm qua
1.Giai đoạn 2001-2005: hoạt động giao nhận kho vận, đặc biệt là giao nhận vận tải quốc tế đã có những bước chuyển biến đáng kể, gần như các công ty Nhà nước chiếm ưu thế và làm đại lý cho các công ty giao nhận vận tải có quy mô toàn cầu nước ngoài. Tuy vậy, khối lượng thuê ngoài dịch vụ giao nhận kho vận chỉ ở mức khoảng 25%, phần còn lại các doanh nghiệp chủ hàng tự tổ chức đầu tư phương tiện hay tự làm.
_Là một ngành kinh doanh còn mới mẻ, khó cạnh tranh bình đẳng với các công ty nước ngoài nên ngành giao nhận kho vận là một trong những ngành kinh doanh được Nhà nước bảo hộ và khuyến khích phát triển.
_Cơ cấu hàng chỉ định (nominated) và không chỉ định trong vận tải ngoại thương mất cân đối trầm trọng bắt nguồn từ tập quán mua CIF bán FOB, điều này dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khai thác vận tải và bảo hiểm được từ 10% đến 18% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu.
2.Giai đọan 2006-2010: thị trường dịch vụ logistics phát triển và chuyển biến mạnh mẽ hơn với khoảng 1.200 (2) doanh nghiệp hoạt động dịch vụ logistics, số vốn và tay nghề hạn chế. Đối trọng là các công ty đa quốc gia có bề dày kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ và uy tín cả trăm năm. Rõ ràng, “miếng bánh” ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đang thuộc về các công ty nước ngoài với phần lớn nhất: 70%.
_Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra vào giữa năm năm 2011 ,Việt Nam cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Uganda, Philippines và Nam Phi có sự phát triển kinh tế ấn tượng nhất trong nhóm các nước đang phát triển. Trong đó, về bảng xếp hạng logistics (LPI), Việt Nam xếp thứ 53 trong tổng số 155 nền kinh tế. Điều này chứng tỏ Việt Nam đang dần cải thiện một cách toàn diện việc phát triển hệ thống logistics bao gồm kho vận, giao nhận, vận chuyển và phân phối.
_Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics) sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn
II.Những thuận lợi để ngành logistic tại VN
Chi phí về logistics chiếm 10% giá trị buôn bán của hàng hóa lưu thông trong nước và chiếm 40% đối với hàng hóa mua bán trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, VN có rất nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp logistics, làm tăng GDP cho đất nước.
1.Hội nhập kinh tế: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đây là cơ hội để tất cả các ngành kinh tế trong đó có logistics phát triển,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia vào thị trường quốc tế.
_VN đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ đưa VN thành một quốc gia mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
Kể từ khi Luật Thương mại có hiệu lực, các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực logistics đã phát triển nhanh chóng. Tính đến nay đã có hơn 600 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải và logistics. Các doanh nghiệp này đã có những đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế và đang từng bước hội nhập, trưởng thành về mọi mặt. Với tốc độ này trong vài năm tới đây số lượng doanh nghiệp kinh doanh trong ngành logistics có thể sẽ vượt cả Thái Lan (1.100 công ty); Singapore (800 công ty), đồng thời chất lượng dịch vụ cũng như năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hoàn thiện và nâng cao.
_ Vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể là nguốn vốn ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho VN ngày càng tăng
Năm 2010, Việt Nam thể hiện sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và quốc tế với kim ngạch xuất khẩu hai chiều đạt khoảng 150 tỉ USD/năm, tương đương 160% tổng GDP quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế có uy tín như AFTA, ASEM, APEC, WEF và các khuôn khổ hợp tác khu vực tiểu vùng Mekong. Nhiều thỏa thuận kinh tế quan trọng cung cấp nguồn FDI và ODA từ Mỹ, EU, Nhật Bản đã được thực hiện cho thấy triển vọng phát triển của thương mại Việt Nam trong dài hạn. ADB đánh giá tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 và 2011 vẫn đạt mức tương ứng là 6,5% và 6,8%.
_ Lĩnh vực dịch vụ đang được quan tâm phát triển, hoạt động logistics đã bắt đầu thu hút sự chú ý của các cấp quản lý Nhà nước cũng như của các DN trong và ngoài nước
_ Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Đây chính là một trong những điều kiện tiên quyết để ngành công nghiệp logistics VN phát triển, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.”
2. Việt Nam có diều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi
_VN có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế,nằm ở khu vực chiến lược trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển trải dài trên 2.000 km, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông là tiền đề khả quan để phát triển logistics
_Giống như các quốc gia trong khu vực có bờ biển dài như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Phillipin, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa trên tuyến vận tải đường biển thông với nhiều hướng từ Trung Đông, Châu Âu, Châu Mỹ đến Nhật Bản, Nga. Với khoảng 100 cảng dài đều từ Bắc vào Nam, Việt Nam có điều kiện giao thông thuận lợi để đón hàng từ các quốc gia láng giềng gồm Lào, Campuchia, Trung Quốc đi quốc tế.
Trong thống kê của Ngân hàng thế giới ( Worldbank ) về khả năng cung cấp dịch vụ logistics của các quốc gia, Việt Nam được đánh giá không thua kém so với các nước trong khu vực về khả năng vân tải quốc tế (Internationl shipment).
_Những năm gần đây, Chính Phủ Việt Nam đã bắt đầu quan tâm xây dựng cảng nước sâu đón tàu trọng tải lớn và đầu tư hệ thống giao thông đường bộ, kho bãi một cách quy mô và chuyên nghiệp. Sự đi vào hoạt động của Cảng Quốc tế Cái Mép – Thị Vải năm 2009 với khả năng đón trọng tải 160.000 DWT chạy thẳng tới các cảng Châu Mỹ, Châu Âu không chỉ thúc đẩy xuất nhập khẩu nội địa mà còn đặt nền tảng đầu tiên cho sự hội nhập cho ngành logistics Việt Nam vào với sân chơi quốc tế.
3. Logistics - Ngành kinh doanh trẻ có tốc độ tăng trưởng cao.
_Xuất phát điểm từ sự phát triển tương đối muộn với một hệ thống cơ sở hạ tầng ( giao thông vận tải, cầu cảng, kho bãi ) thiếu đồng bộ và dịch vụ chưa hoàn chỉnh, nên khi nhu cầu kinh tế đòi hỏi, ngành logistics đã có sự đầu tư phát triển khá nhanh. Trong khi thương mại quốc gia tăng mức trung bình là 13%/ năm trong thập niên qua, thì ngành logistics của Việt Nam đã đi trước một bước với tốc độ tăng trưởng đầu tư là 20%/ năm. Quy mô thị trường logistics năm 2009 đạt 20 tỷ USD/năm. Đây được xem là con số tương đối nhỏ so với các quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, thay vào đó, ngành logistics Việt Nam lại có tốc độ tăng trưởng cao nhất và được đoán sẽ tiếp tục duy trì ở mức 20% - 25% trong vòng 5 năm tới.
_Trong quy hoạch phát triển vận tải biển từ nay tới năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, dịch vụ logistics cũng được nhấn mạnh với dịch vụ vận tải đa phương tiện chất lượng cao, hướng tới dịch vụ trọn gói (3PL, 4PL) và mở rộng ra nước ngoài để đáp ứng nhu cầu hội nhập.
_Ở Việt Nam tiềm năng phát triển dịch vụ logistics còn rất lớn. Dự tính trong 10 năm tới, kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 200 tỷ USD. Năm 2010, sản lượng vận tải cả nước đạt 714,8 triệu tấn hàng hóa, 223,8 tỷ tấn/km (tăng 12,4% về tấn vận chuyển và 10,5% tấn/km). Lượng hàng container thông qua cảng biển tăng 16,9%, hàng lỏng tăng 24%, hàng quá cảnh tăng 6%, vận tải hàng không tăng 20% về hành khách và 30% về hàng hóa so với năm2009.
III.Những khó khăn phát triển ngành logistics tại Việt Nam.
1.Doanh nghiệp:
_Quy mô hầu hết các doanh nghiệp dịch vụ logistics là vừa & nhỏ, Thiếu vốn và công nghệ luôn là hai yếu tố khiến các doanh nghiệp Việt Nam yếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thiếu kinh nghiệm, tính chuyên nghiệp và gắn kết đồng bộ trong hoạt động, chủ yếu do các Cty cảng biển và trong ngành hàng hải cung cấp dịch vụ logistics.
_Vẫn chưa có doanh nghiệp nào thực sự đủ tầm kinh doanh chuỗi các hoạt động logistics mà chỉ cung cấp dịch vụ cơ bản, nên chỉ nhận tham gia một số công đoạn trong chuỗi cung ứng dịch vụ logistics hay cho các công ty logistics nước ngoài.
_Tầm bao phủ hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ trong phạm v
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: