THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA

1. MỞ ĐẦU CÂU CHUYỆN



Một hôm Trang Tử dẫn học trò đi ngao du, nhân lúc ghé vào nhà một người bạn để thăm. Chủ nhà tay bắt mặt mừng, nói:



- Tiếng tăm tiên sinh vang dội như sấm bưng tai. Hôm nay tiên sinh ghé thăm bỉ phu thật là vạn hạnh.



Nói rồi quay lại gọi một gia đinh, bảo:



- Hôm nay ta gặp khách quý, để mở đầu câu chuyện ngươi hãy thịt một con chim cho ta đãi khách!



Đứa ở hỏi:



- Vâng ạ! Nhưng thưa chủ nhân, có hai con chim, một con hót hay, một con không biết hót, thịt con nào?



Chủ nhân chép miệng:



- Dĩ nhiên phải thịt con chim không biết hót, thứ vô dụng đó để làm gì?



Trang Tử cùng chủ nhân ngồi nhâm nhi ly rượu với thịt chim, luận chuyện thế thái nhân tình, đoạn từ giã chủ nhà, dẫn học trò ra đi. Họ đến bìa rừng, thấy một tiều phu chống búa nhìn cảnh rừng núi bao la. Trước mắt lão là một cây cổ thụ. Trang Tử thấy vậy hỏi:



- Trời chiều mà chưa thấy tiều ông đẵn được cây nào. Gặp cây này cao thẳng sao ông không hạ đi?



Lão tiều thở dài nói:



- tui cũng muốn hạ nó, nhưng ngặt gỗ nó xốp lắm, thứ vô dụng đó đẵn mà làm gì?!



Một học trò nghe vậy, hỏi thầy:



- Cây vô dụng thì bỏ qua, con chim vô dụng thì giết. Con thật không hiểu nổi thói đời?



Trang Tử mỉm cười nói:



- Ta ở vào khoảng hữu dụng và vô dụng đó. Chỉ có bậc đạo đức mới tránh khỏi tai họa mà thôi.



LỜI BÀN:



Đây là một bài học ngụ ngôn nhằm khuyên răn người đời . Câu kết luận của Trang Tử nói nghe như lạc đề. Vì chim và cây không phải là người. Hữu dụng và vô dụng là hai mặt đơn giản của cuộc đời...



Nhưng ta để ý, làm thế nào để ẩn mình vào giữa lằn mắt vô hình hữu dụng và vô dụng đó? Trang Tử nói: "Chỉ có bậc đạo đức!"Người vô dụng không phải không làm được chuyện gì? Ít ra họ cũng biết hô hoán (Nếu cho họ canh cửa), cũng biết dọn dẹp giặt giũ (nếu dùng họ trong chuyện sai vặt). Người vô dụng có thể bị người khôn khéo bóc lột công sức cho đến khi hơi thở can kiệt. Còn người hữu dụng thì sao? Người thấy chuyện gì cũng làm được, thành ra chuyện gì cũng ôm lấy, cáng đáng, vong động, vong tưởng, cuối cùng cũng làm con rối cho bọn quyền thế cường hào. Tựu trung, hữu dụng hay vô dụng cũng đều bị dùng. Người đạo đức, theo người xưa là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình. Chỉ có bậc hiền trí mới tránh được cạm bẫy của người khác. Có thể chứng minh một câu chuyện tương tự. Nước Tề có loạn lạc. Đôi bạn Bảo phúc Nha và Quản Di Ngô(tức Quản Trọng) phò hai vị con quan chạy ra nước ngoài. Bảo Thúc Nha đem con quan Tiểu Bạch sang nước Củ, và nói: "Chỉ có mấy nước nhỏ mới không thất tín". Quản Di Ngô đưa con quan Củ chạy sang nước Lỗ, và nói: "Lỗ là cường quốc của thời (gian) này. Vả lại Lỗ là quê ngoại của con quan ". Vua Tề bị giết. Nhờ nước Củ ở gần Tề nên Bảo Thúc Nha đem con quan Tiểu Bạch về kịp vừa lên ngôi. Công tử Củ ở nước Lỗ rất xa không về kịp. Bảo Thúc Nha nói với con quan Tiểu Bạch (bấy giờ vừa lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công): "Trước đây Quản Di Ngô muốn giết chúa công là bởi "ai vì chúa nấy". Lúc ấy Di Ngô đang phò con quan Củ. Xin chúa công đừng giận ông ta. Di Ngô là bậc đệ nhất kỳ tài. Chúa công muốn dựng nghề bá, không có ông đó, không xong. Nay tui đem binh đóng biên giới làm áp lực, buộc vua Lỗ phải "xử trí" lấy Củ, và buộc vua Lỗ giao Di Ngô cho chúa công". Bên kia Di Ngô và vua Lỗ tranh không kịp với Tiểu Bạch, lòng còn đang tức. Bỗng nghe quân Tề kéo đến. Mưu sĩ nước Lỗ là Thi Bá, hiến kế: "Để tránh binh đao với Tề, chúa công nên giết Củ đi, vì Củ là tên vô dụng! Nhưng chúa công phải tìm tất cả cách trọng dụng Quản Di Ngô, vì tài của ông ta "kinh thiên vĩ địa". Vua Lỗ nói: "Di Ngô một lòng với chủ. Nay ta giết Củ là chủ hắn, thì hắn không bao giờ chịu giúp ta đâu. Vả lại, Tiểu Bạch một mực đòi DiNgô về Tề, để tự tay mình trả thù". Thi Bá nói: "Đó là mẹo của Thúc Nha đòi Di Ngô về Tề để dùng. Chúa công không dùng thì giết chứ đừng trả Di ngô". Vua Lỗ không nghe. Di Ngô về Tề giúp cho Tề Hoàn Công, đưa nước Tề lên địa vị bá chủ. Vua Lỗ ân hận mãi.



Chuyện này có phần hơi khác chuyện Trang Tử trên đây. Ở đây kẻ vô dụng bị giết vừa đành, nhưng người tài giỏi vẫn bị người ta đòi giết. Cũng may, Di Ngô và Thúc Nha là những người kỉ mưu tuyệt cú trí nên không bị những kẻ tầm thường hạ sát. Nhưng cái ý nghĩa của nó vẫn tương tự nhau, chỉ có bậc đạo đức, hiền trí mới giữ được mình.



ST
 

Stanley

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA

2 - HÌNH ẢNH MỘT XỬ NỮ NGÀY XƯA



Ngũ Tử Tư từ lúc lưu vong, xin ăn dọc đường bụng đói lả. Đến đất Phiên Dương thấy một thiếu nữ đang ngồi giặt lụa trên bến Lại Thủy, có đem theo mo cơm đặt bên cạnh.

Tử Tư nói:



- Ta trên bước đường cùng nên mới xin ăn, xin nàng giúp cho!



Thiếu nữ ngước lên nhìn Tử Tư rồi nói:



- Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn?

Người con gái mở gói cơm đưa cho Ngũ Viên (tức Ngũ Tử Tư) và Thắng (Thắng là đứa bé con Thái tử Kiến). Kiến bị vua cha muốn giết bỏ trốn tránh qua Trịnh, sau phản Trịnh bị giết ở Trịnh. Tử Tư phải mang Thắng theo). Ngũ Viên và Thắng cùng ăn. Ngũ Viên biết thiếu nữ cùng kiệt khổ, lại ở nơi vắng vẻ, nên không dám ăn hết, để lại cho nàng một phần. Thiếu nữ nói:



- Hai người còn đi xa, hãy dùng hết đi.



Ngũ Viên và Thắng ăn hết cơm. Lúc sắp đi, Ngũ Viên nói:



- tui không bao giờ quên ơn nàng. tui là người chạy trốn.



Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ.



Thiếu nữ than:



- Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng ăn thành ra thất tiết! Thôi, các ngươi đi đi! Ngũ Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh mặt thấy cô gái giặt

lụa ấy vừa ôm lấy cục đá nhảy xuống sông mà trầm mình.



Ngũ Viên bi thương quá đỗi, cắn ngón tay chảy máu, viết hai mươi chữ trên đá: "Nhĩ hoàn sa, ngã hành khất. Ngã phúc bảo, nhỉ thân nịch. Thập niên chi hậu, thiên kim báo đáp" (Nàng giặt lụa, ta ăn xin. Ta bụng no, nàng chết chìm. Hẹn mười năm nữa ngàn vàng báo đền). Tử Tư lấp đất hòn đá lại rồi dắt Thắng vào nước Ngô.



LỜI BÀN:



Cho đến bây giờ, có lúc người ta gặp cảnh ngộ thất thường đành tạm ăn xin qua ngày, thì thời (gian) đó chuyện ăn xin của Ngũ Tử Tư cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Vấn đề ở đây là một thiếu nữ quê mùa sau khi cho Ngũ Tử Tư ăn một bữa cơm, nàng lại trầm mình. Tại sao nàng lại tự sát? Có người nói, thiếu nữ chết là bởi Tử Tư dặn một câu: "Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ". Nàng chết là để Ngũ Tử Tư yên tâm. Thật ra đó là ý phụ. Ta xem câu nàng nói: "Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn?" "không phải người thường" có ý chỉ Ngũ Tử Tư là nhân vật quan trọng sau này. "Đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn". Chuyện nhỏ mọn ở đây không chỉ chuyện nàng nhịn đói một bữa, mà có ý chỉ cho chuyện "không được tiếp xúc với đàn ông ở nơi vắng vẻ". Vì vậy nàng mới than: "Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng cơm thành ra thất tiết!" Chỉ nói chuyện với đàn ông mà nàng đánh giá là "thất tiết", đủ hiểu cái "tiết" to lớn đến bậc nào. "Tiết" ở đây là tiết hạnh, là sự trong trắng từ thể xác đến linh hồn. Phẩm tiết là cái diện mạo của Trinh tiết. Phẩm tiết không có thì cái "Trinh" cũng bằng thừa. Vì nhiều người không thân dâm mà ý dâm thì sao? Phẩm tiết của người con gái không hẳn chỉ ở những nhà quyền quý, không hẳn chỉ ở những tiểu thư, công nương, không hẳn chỉ ở những gia đình thế phiệt, trâm anh. Lấy theo con mắt của người nay, thì cái chết của thiếu nữ giặt lụa là "chết dại", nhưng với con người phẩm hạnh của người xưa, họ cho rằng: "danh tiết còn giá trị hơn thân xác". Vì thân xác có thể mất đi nhưng danh tiết vẫn còn. Hình ảnh ấy vừa cao cả, vừa bi tráng.





ST
 

Bradfurd

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA



4. CHUYỆN CON VE SẦU VÀ NƯỚC NGÔ



Một sớm, Thái tử Hữu mang cung tên vào cung, vừa gặp vua Phù Sai. Nhà vua hỏi:



- Con mang cung tên đi đâu mà áo quần ướt sũng thế này?



Thái tử nói:



- Con đi săn vô ý bị sụp hầm?

- Sao lại vô ý sụp hầm?



Thái tử nói:



- Con thấy con ve đang kêu, con toan rình bắt. Bất ngờ con thấy con bọ ngựa đưa càng lên bắt con ve, lại thấy con chim sẻ đậu gần đó muốn đớp con bọ ngựa. Con bèn lui lại chuẩn bị bắt con chim sẻ, không ngờ bị sa xuống sình!



Nhà vua nói:

- Con chỉ biết ham cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến cái hại phía sau. Thiên hạ có ai ngu như con không?



Thái tử nói:



- Vậy mà có kẻ ngu hơn con! Lỗ vốn là nước lễ nhạc, trước có Chu Công, sau có Khổng Tử, không xâm phạm gì đến Tề, thế mà Tề vẫn cất quân đánh, tưởng là lấy được Lỗ. Ai ngờ nước Ngô ta vượt ngàn dặm đánh Tề, ai ngờ nước Việt đem quân cảm tử đánh Ngô!... Phù Sai nổi giận hét:



- Cút! Cút... Đó là luận điệu của thằng giặc già Ngũ Viên!



Thằng giặc ấy tao vừa giết rồi! Nếu mày là con tao từ nay đừng nói tới chuyện đó nữa!



Thái tử Hữu sợ hãi lui ra.



LỜI BÀN:



Trước đây Ngũ Tử Tư khổ tâm, khổ công can gián Phù Sai về chuyện này, ông bị Phù Sai giết đi, vì vẫn đinh ninh rằng nước Việt không bao giờ dám phản. Thái tử hữu mượn hình ảnh con ve, con bọ ngựa, con chim sẻ để chỉ nước Lỗ, Tề, Ngô, Việt. Người ta nói:"Không kẻ nào điếc bằng lòng người không muốn nghe, không kẻ nào mù bằng kẻ không muốn thấy". Ngô Phù Sai không ngu nhưng ông không muốn nghe những lời can phải. Ngô Phù Sai không giết con mình nhưng cất quân đi đánh Tề và hội chư hầu lần nữa, nước Việt đánh úp nước Ngô và giết chết Hữu! Chả khác nào Ngô Phù Sai vừa giết con.



ST

 

pink_piglet_94

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA

5. TIẾNG ĐÀN BÀN QUỐC SỰ (TRÂU KỴ THUYẾT TỀ UY VƯƠNG)



Tề Uy Vương lên ngôi 9 năm, ngày nào cũng đàn quyển ca vang, đắm say tửu sắc. Một hôm có người tên Trâu Kỵ là người nước Tề, xin vào yết kiến Tề Uy Vương, nói:



- tui biết gảy đàn, nghe đại vương KẾT âm luật, nên tìm đến.

Uy Vương cho người mang đàn ra. Trâu Kỵ lên dây, nhưng không gảy. Uy Vương hỏi:



- Tiên sinh cho ta nghe một bản chứ?



Trâu Kỵ nói:



- Biết cầm lý (lý thuyết về đàn) mới là quan trọng, còn tiếng đàn chẳng qua là do sợi tơ phát âm mà thôi.Vua hỏi:

- Vậy thế nào là cầm lý?



Trâu Kỵ nghiêm trang nói:



- Cầm là Cấm! Là cấm ngặt! Là cấm chỉ những sự đắm say tửu sắc để giữ cho chánh đạo. Trong đàn, dây lớn nhất chỉ vua, còn các dây nhỏ là bề tôi. Đời Phục Hi chế đàn có 5 dây. Đến Chu Văn thêm một dây, sang Chu Vũ thêm một dây nữa để hợp tình ý giữa vua tôi, vậy đủ biết đàn dùng vào chuyện chính sự. Uy Vương nói:

- Phải! Tất nhiên tiên sinh phải biết cầm âm?



Trâu Kỵ nói:



- tui học đàn tất phải biết chơi đàn, cũng như đại vương lo nghề nước, há lại không biết trị quốc hay sao? Nay đại vương cầm mệnh đất nước mà không trị, có khác gì tui cầm đàn mà không gảy? tui ôm đàn mà không gảy thì đại vương không bằng lòng. Đại vương bỏ nước không trị thì trăm họ không bằng lòng!



Uy Vương ngạc nhiên nói:



- Thì ra tiên sinh mượn tiếng đàn để khuyên ta? !



Sau đó Uy Vương mời Trâu Kỵ làm tướng quốc, Trâu Kỵ chấn hưng nước Tề thành một cường quốc.



LỜI BÀN:



Đây cũng là thuật thuyết khách. Uy Vương KẾT âm nhạc. Trâu Kỵ xưng mình biết chơi đàn nên mới được Uy Vương tiếp. Nếu Trâu Kỵ nói: "tui vào khuyên nhà vua không nên đam mê tửu sắc", thì chưa chắc được Uy Vương mời vào. Quả như lời Trâu Kỵ nói, âm nhạc dùng vào chuyện lễ nghi chính sự, âm hưởng của nó khiến người ta thư thái, an lạc, vui hòa. "Nhạc" là điệu đàn, còn âm là "lạc" là vui hòa. Các triều đại thời (gian) cổ (trước nhà Chu) đều dùng âm nhạc trong chuyện tế lễ, thiết triều. Đến đời Trụ Vương nhà Ân, vua Trụ sai một đại nhạc sư là Sư Diên chế ra một loại âm nhạc cho các ca nữ hát để hòa đàn theo, dần dần biến thành hai thứ âm nhạc song hành: Đó là Âm nhạc cho triều đình và Âm nhạc trong cung đình. Nhạc cung đình là nhạc đệm theo các điệu múa của cung nữ, tiến độ của nó đi đến độ "dâm nhạc". Chính Sư Diên là tác giả khúc Mi-mi, một bản dâm nhạc bất hủ vào thời (gian) đó, Sử nói: "Từ khi vua Trụ cho dạo khúc Mimi, nhà vua bắt đầu bỏ bê triều chính, sa vào con đường tửu sắc, nhục dục". Khi Chu Vũ Vương đánh chiếm triều ca, giết vua Trụ, Sư Diên chạy về Đông đến nước Vệ, tự tử trên sông Bộc... Những đêm khuya vắng, người dân ở vùng sông Bộc thường nghe khúc Mi-mi rất ma quái, quyến rũ. Một thành ngữ còn sót lại ngày nay là "Bộc thượng tang trung" (Trên sông Bộc, trong đám dâu, chỉ cho chuyện trai gái gian dâm. Truyệng Kiều có câu: "Ra tuồng trên Bộc trong dâu / Thì con người ấy ai cầu mà chi")



Lời của Trâu Kỵ nói, là nói về nguyên ủy của âm nhạc. Còn nói "cầm", hai từ ấy nghĩa khác nhau nhưng đọc cùng âm, Trâu Kỵ dùng để nhấn mạnh cho nhà vua thức tỉnh. Trâu Kỵ là vị tướng quốc giỏi của thời (gian) đó. Sau thời (gian) Án Anh, nước Tề chưa có vị tướng quốc nào sánh ngang với Trâu Kỵ.





ST
 

ketnoitimban

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA





6. THUẦN VU KHÔN THỬ TÀI TRÂU KỴ

Thuần Vu Khôn vốn là một biện sĩ (biện sĩ: Người biện bác giỏi) lỗi lạc nhất của Tề, nghe Trâu Kỵ uốn ba tấc lưỡi mà được phong làm Tướng quốc, có ý không phục, bèn dẫn bọn tay chân đến yết kiến Trâu Kỵ. Trâu Kỵ tiếp đãi tử tế, Thuần Vu Khôn với vẻ mặt cực kỳ kiêu ngạo nói với Trâu Kỵ:



- tui có mấy điều thô lậu có thể trình bày với Tướng quốc được không?



Trâu Kỵ chắp tay đáp:



- Không dám! Xin tiên sinh cho nghe!



Thuần Vu Khôn nói:



- Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng!



Trâu Kỵ đáp:



- Xin vâng lời! Từ nay tui không xa vua nửa bước!



Khôn nói:



- Đã dùng gỗ gai làm bánh xe mà bôi thêm mỡ thế là trơn lắm, nhưng nếu mà đục lỗ vuông khó mà vận chuyển được!



Kỵ đáp:



- Xin vâng lời! tui không làm điều gì trái với thông tục.



Khôn nói:



- Cánh cung dẫu cứng cũng có lúc trễ, các dòng sông đều chảy ra bể, tự nhiên mà hòa hợp!



Kỵ đáp:



- Xin vâng lời! tui sẽ chọn người hiền mà dùng, quyết không đem kẻ bất tài vào chốn miếu đường.



Khôn nói:



- Cầm sắt không so dây thì không thành âm luật.



Kỵ đáp:



- Xin vâng lời! tui sẽ sửa lại pháp luật để xem xét những kẻ gian lận.



Thuần Vu Khôn sợ hãi sụp lạy rồi lui ra. Bọn tay chân thấy bộ mặt của ông méo xệnh liền hỏi:



- Sao vậy?



Thuần Vu Khôn thở ra, nói:



- Ta dùng ẩn nghĩa hỏi năm điều, quan Tướng quốc trả lời được hết. Ngài là bậc đại tài ta không thể sánh bằng.Sau đó Trâu Kỵ lập tức áp dụng những điều mà Thuần Vu Khôn vừa nói.



LỜI BÀN:



Thuần Vu Khôn dùng phép ẩn ý bàn về phép làm chánh trị của Tể Tướng, Trâu Kỵ hiểu được nên giải đáp hết tất cả thắc mắc. Câu đáp bao giờ cũng đồng dạng với câu xướng, ăn khớp với nhau.



Người ta tưởng chừng hai bộ óc liên thông với nhau. Trong 5 điều, mỗi điều là một rõ hơn trong chuyện xây dựng đất nước, không điều nào ngoài vấn đề. Thuần Vu Khôn hỏi, nhưng câu hỏi bị phù phiếm, không bắt bí, tất cả vấn đề đều đặt vào triều chính, nhờ vậy mà Trâu Kỵ có thể liên tưởng kịp thời. Giả sử, Khôn hỏi một câu vu vơ nào đó như: "Trăng sáng vằng vặc, cung nữ nghêu ngao" thì Trâu Kỵ trả lời sao đây? Sử nói: "Thuần Vu Khôn có tài trông mặt mà đọc hết tư tưởng người đối diện". Giờ này gặp phải tay đối thủ, nét mặt ông tiu nghỉu, đến nỗi bọn đệ tử chế ông: "Sao vậy?", thì thật là thú vị.



ST
 

thuy_duong2207

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA 7. QUAN DỞ ĐƯỢC KHEN, QUAN GIỎI BỊ CHÊ



Trâu Kỵ ghi nhớ lời Thuần Vu Khôn nên ông làm chuyện hết sức siêng năng và cẩn thận. Bấy giờ ai cũng đồn vị quan trấn thủ đất A là người hiền, và chê quan trấn thủ đất Tức Mặc đủ điều.Trâu Kỵ để tâm đến chuyện đó, cho người xem xét hư thực rồi tâu lại cho Tề Uy Vương biết. Uy Vương cho triệu tập quần thần, lại đòi hai vị quan trấn thủ kia. Trước mặt bá quan, vị quan đất Tức Mặc bị coi bằng "nửa con mắt". Vua gọi lão ra hỏi:



- Người trấn thủ Tức Mặc cớ sao để các quan ở triều chê ngươi?



Lão đáp:



- Thần chỉ biết làm hết chức trách của mình, còn chuyện khen chê thần không được biết.



Uy Vương lớn tiếng:



- Ta cho người dò xét đất Tức Mặc thấy ruộng vườn tươi tốt, người dân giàu có, chuyện quan không bê trễ, cả một vùng phương Đông ấy yên ổn, mới hay nhà ngươi một lòng vì dân, không đút lót cho bọn quan lại ở triều, vì lẽ đó mà nhà ngươi bị chê. Ngươi thật xứng đáng là một lương thần.



Nói rồi liền gia phong cho vị quan đất Tức Mặc. Lại gọi vị quan đất A, nói:



- Ngươi trấn thủ đất A thế nào mà ngày nào ở triều cũng thấy lời khen ngợi về ngươi. Ta cho người đến dò xét thì thấy ruộng vườn bỏ hoang người dân đói rách. Quân Triệu xâm lấn bờ cõi ngươi không chịu cứu. Nhà ngươi bóc lột tiền của dân chúng đút lót cho kẻ tả hữu của ta để được tiếng khen. Ngươi là tên tham quan độc ác.



Quan đất A sụp lạy xin tha tội. Uy Vương truyền đem hắn bỏ vào chảo dầu sôi. Các quan xanh mặt. Vua truyền những tên từng khen chê bất công đó ra mắng:



- Các ngươi là tai mắt của ta lại ăn bẩn, phải trái đảo lộn. Nay đem các ngươi cho vào vạc dầu.



Uy Vương truyền đem những kẻ thân tín nhất của mình bỏ vào vạc dầu để làm răn! Chư hầu thấy sự cải cách của Uy Vương đều sợ.



LỜI BÀN:



Việc này nhan nhản ở tất cả xã hội. Đời nay có khác gì đời xưa? Thí sinh đi thi thấy mình yếu kém bèn đút lót để được điểm cao. Thậm chí có người không đi thi mà vẫn cấp bằng làm mất công nhà vua phải "lật sổ bộ" ra tra. Nguyễn Khuyến nói: "Có tiền chuyện ấy thì xong nhỉ? Đời trước làm quan cũng thế a?" May mắn thay cho triều nào minh quân gặp lương thần. Vụ án hai ông quan trên đây là một bài học cho những người có trách nhiệm với người dân.



ST
 

Aliz

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA 8. NHÂN VÀ TRÍ



Thầy trò Khổng Tử bỏ nước Lỗ lưu vong ra nước ngoài. Một hôm Khổng Tử gọi Tử Cống (một trong 72 học trò hiền của Khổng Tử) hỏi:





- Theo con, thế nào là người nhân, thế nào là người trí?





Tử Cống suy nghĩ một lát rồi đáp:





- Thưa thầy, người nhân là người biết thương người; người trí là người hiểu người.





Khổng Tử khen "hay". Rồi kêu Tăng Tử vào hỏi lại câu trên. Tăng Tử suy nghĩ một hồi rồi đáp:





- Thưa thầy, người nhân là người biết thương mình; người trí là người tự biết mình.





Khổng Tử chịu quá! Đoạn ông gọi Tử Lộ vào hỏi:





- Theo con, thế nào làngười nhân, thế nào là người trí?





Tử Lộ thưa:





- Theo con, người nhân là người làm sao cho người khác thương được mình; còn người trí là người làm sao cho người khác hiểu được mình!...





Khổng Tử rất đỗi ngạc nhiên, ngửa mặt khen rằng:





- Bất ngờ thay!...





LỜI BÀN:





Cùng một cân hỏi nhưng ba câu trả lời hoàn toàn khác nhau, đây thật là điều thú vị và bất ngờ.



Nhưng ta thường thấy chuyện đời không khác nào một dòng sông, có lúc từ trên cao đổ ào ào xuống vực sâu, có lúc trườn mình, len lách qua hẻm núi, có lúc thênh thang lặng tờ giữa bình nguyên... thiên hình vạn trạng. Nhưng mỗi dạng trạng đều phù hợp với mỗi hoàn cảnh. Bởi không bao giờ trời mưa lụt mà sông cạn, trời nắng hạn mà nước sông dâng. Núi dựng bạt ngàn dòng sông không thể không uốn mình lượn theo thế núi. Con người cũng thế. Có lúc ta vì người và người vì ta, có lúc ta vì ta, và người vì người, theo hoàn cảnh mà hành sự. Như thế mới không lỗi. Trong toán học cũng có những vấn đề như trong nhân sinh.





Trước đây 2300 năm, nhà Toán học Hi Lạp, Eulide phát biểu: - "Từ một điểm ngoài đường thẳng, ta chỉ vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng vừa cho"! Ai muốn học toán lên cao bắt buộc phải chấp nhận lời yêu cầu này. Vì đây là một điều hiển nhiên. Thế mà ở Anh, Remann lại phát biểu: - "Từ một điểm ngoài đường thẳng, ta không vẽ được một đường thẳng nào song song với đường thẳng cho trước"! Chưa hết! Sau đó nhà toán học Laubatchewsky lại phát biểu: - "Từ một điểm nằm ngoài đường thẳng, ta có thể vẽ được vô số đường thẳng song song với đường thẳng cho trước"! Thế có trái ngược không? Hai định đề sau đây phải là sai (vì sai đâu là định đề!), ở toán cao cấp người ta vẫn dùng nó. Tất nhiên muốn dùng nó phải tùy theo điều kiện. Người ta thường nói, "chân lý ở bên này Pyrréneés, sang bên kia trở thành nghịch lý". Đúng hay không đúng còn tùy theo hoàn cảnh. Qua câu hỏi nhân trí của Khổng Tử, Ngũ tử Tư ở nước Ngô (người cùng thời (gian) với Khổng Tử) nói:



- Không thương mình làm sao thương được người ngoài?





Không thương người làm sao người thương ta? Môn đồ của Khổng Tử chỉ "chẻ tư sợi tóc nhân nghĩa" (ý nói phiến diện) mà thôi! Nhân và Trí ít nhiều gì vốn vừa có sẵn trong mỗi người, chỉ sử dụng có hợp lúc không thôi! Do đó bất kỳ chuyện gì, đúng hay sai, công hay tội chúng ta khó mà đem nhận xét chủ quan ra để phán xét được. Bởi chuyện hành xử của tha nhân còn tùy thuộc hoàn cảnh của họ lúc đó.



ST
 

Elson

New Member
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA

9. NƠI CHUỒNG NGỰA

Ngày xưa có một hàn sĩ đến kinh để ứng thí. Trong lúc đợi đến ngày thi chàng tạm ngụ tại một quán rộng lớn rãi bề thế. Nhà quán thấy chàng túng thiếu tiền liền cho ra ngủ ngoài chuồng ngựa.



Một hôm chàng đi thi về ghé lại chuồng ngựa bỗng thấy cháy bùng bùng phía trước, chàng hàn sĩ vừa kêu vừa cứu lửa, vừa chạy tìm đồ dập lửa. Lửa cháy gây thiệt hại cho quán khá nhiều. Chủ quán dẫn chàng lên cáo quan, nói:



- Gã thư sinh này xin ngụ nhà tôi, hắn không có tiền bạc gì nên tui không cho ngụ trong nhà, cũng không nỡ đuổi nó, chỉ cho nó ở tạm chuồng ngựa mà không tính tiền. Vì thế nó đâm ra oán hận đốt nhà tui để trả thù!



Án quan hỏi:



- Việc gã thư sinh này đốt nhà mụ, có ai thấy, có ai làm chứng?



Mụ quán nói:



- Bẩm quan, trưa vắng ít khách vãng lai, nhưng chính mắt tui thấy hắn đốt nhà xong, miệng thì hô "lửa cháy", chân thì chạy tìm chỗ trốn.



Lúc ấy quan án nghĩ thầm: "Có lý nào mụ quán đặt điều để hại gã này? Vì mụ cho hắn ngủ ngoài chuồng ngựa, không tính tiền, vậy là người tốt rồi". Án quan tin lời mụ không cần nghe lời biện bạch của gã thư sinh. Án quan bắt chàng bỏ tù.Hai năm sau mãn án, chàng ghé lại kinh hỏi thăm thì biết tin mình đậu. Nhưng vì không có mặt mình lúc đó để điện thí, thì cầm bằng công cốc. Chàng buồn và hận. Hàn sĩ kia kiếm đâu được bộ áo nho sinh lịch sự, chàng ghé lại quán quầng ra sau chuồng ngựa bật lửa đốt nhà kho rồi chạy ra phía trước, vờ như thực khách mới bước vào quán. Chàng vừa gọi thức ăn vừa đưa mắt nhìn khói phía sau cuốn lên ngùn ngụt... rồi mới hô hoán lên: "Cháy nhà... Cháy nhà", rồi cũng chạy đi tìm gàu múc nước dội lửa. Mọi người xúm lại dập tắt ngọn lửa. Chủ quán dường như không nhớ mặt chàng.





Hàn sĩ bỏ đi, còn càm ràm mấy tiếng:





- Ôi cuộc đời! Kẻ có công thì bắt bỏ tù, còn người có tội được thưởng!...



LỜI BÀN:



Chàng thư sinh có vẻ như cay cú với cuộc đời. Xét ra mụ quán không có gì độc ác, vì nóng ruột mà thiển cận mới đổ oan cho chàng. Ngày xưa, bậc quân tử không mấy khi biện bạch nỗi oan khúc của mình. hay có biện bạch mà người ta không nghe thì họ cũng không thèm oán hận. Xét cho kỹ, oán hận cũng không lợi gì.



Nhà Phật nói: "Nỗi oan không nên biện bạch. Vì biện bạch thì không hỉ xả". Nhưng tác giả của bài "Nơi chuồng ngựa" có một ý khác. Ý tác giả muốn nói, người đời thường hay lầm lẫn, hay có những phán đoán chủ quan. Kẻ có công đáng ra phải được thưởng, người có tội phải bị trừng trị. Ở đây thì ngược lại. Để được công bình, xét công và tội của một người, kẻ có trách nhiệm xét chuyện không nên xét một cách võ đoán.



ST

 
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA 10. BIỂN CÁ LỚN



Tĩnh Quách Quân Điền Anh muốn xây lại thành Tiết cho thật uy nghi hùng tráng, đám thực khách của ông khuyên can, nhưng Điền Anh vẫn không nghe, còn hạ lệnh:





- Ai can, ta sẽ chém!





Có một ông khách đến nói:





- Cho tui gặp Tĩnh Quách Quân, tui sẽ nói ba tiếng thôi, nếu dư tiếng nào thì buộc tui đi!





Tĩnh Quách Quân gọi vào. Khách nói:





- Biển cá lớn!





Rồi quay lưng chạy, Tĩnh Quách Quân gọi theo:





- Mời khách ở lại! Mời khách ở lại!...





Khách vừa chạy vừa nói:





- Kẻ hèn này không dám đùa với cái chết!





Điền Anh nói:





- Không sao! Xin hãy nói tiếp!





Khách nói:





- Ngài không nghe nói loài cá lớn sao?





Lưới không bủa được nó. Câu không kéo được nó. Nhưng nếu nó mắc cạn thì loài kiến tý tẹo kia cũng xâu xé nó được. Nước Tề với ngài tương tự như biển với cá lớn vậy. Ngài còn nước Tề thì ấp Tiết này có kể chi? Nhưng nếu nước Tề mất thì dù thành Tiết này có xây đụng trời cũng vô ích.





Tĩnh Quách Quân Điền Anh tỉnh ngộ đáp:





- Phải!



Rồi bỏ ý định xây dựng thành Tiết.



LỜI BÀN:



Đây là đoạn văn nói về nghệ thuật thuyết phục. Ba tiếng "Biển cá lớn" chưa đủ ý nghĩa muốn nói, nhưng ông khách phải nói vậy để gây sự tò mò của người nghe. Đó là điều tiên quyết. Kế đến ông khách quay lưng chạy càng làm tăng thêm sự chú ý, đó là điều thứ nhì để "hấp dẫn" người nghe. Kết quả Điền Anh phải bỏ ý định xây thành Tiết. Trên phương diện lịch sử, ta biết, ấp Tiết là đất phong của vua Tề cho Tướng Quốc Điền Anh. Ta có thể hình dung đó là một nước trong một quốc gia. Xây thành kiên cố để chống giặc cũng không đến nỗi phung phí; nhưng chỉ làm riêng cho một ấp Tiết thôi, thì đó là "vì nhà" chứ không phải "vì nước". Xây riêng cho ấp phong của mình mà hao tốn của người dân, thâm lạm công quỹ, không mang tính toàn diện và quốc phòng thì bất lợi đủ điều:



Triều đình sẽ nghi kỵ ông, dân chúng sẽ khổ cực vì ông... Lời ông khách thuyết Điền Anh nhằm vào chỗ này. Sau khi Điền Anh mất, Điền Văn là con lên nối nghề được vua Tề phong là Mạnh Thường Quân, ấp Tiết vẫn là ấp phong như cũ.





ST

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D khảo sát địa kỹ thuật khu vực đất yếu, lựa chọn chỉ tiêu cơ lý của các lớp đất & các giải pháp xử lý nền đường đắp trên đất yếu Khoa học Tự nhiên 0
K Định hướng giá trị trong quan hệ ứng xử của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên Tâm lý học đại cương 0
B Văn hóa ứng xử của các nhà báo trực tuyến đối với thông tin văn hóa nghệ thuật (Khảo sát Báo trực tuyến VnExpress, Vietnamnet và VnMedia từ năm 2009 đến năm 2010) Văn học 0
C Các kỹ thuật xử lý ngôn ngữ trong số hóa văn bản tiếng Việt của hệ thống FSCANNER Công nghệ thông tin 0
N Kỹ thuật xử lý cơ bản trong hệ thống MIMO kênh Fading phẳng và đánh giá độ phức tạp của các kỹ thuật này Công nghệ thông tin 0
A Nghiên cứu các kiến trúc của máy tính song song, các mô hình và các thuật toán trong xử lý song song Tài liệu chưa phân loại 0
H Thiết kế sơ bộ trạm xử lý nước thải cho một thành phố và thiết kế kỹ thuật một công trình của trạm Tài liệu chưa phân loại 2
D Giáo trình, bài tập KỸ THUẬT VI XỬ LÝ Công nghệ thông tin 0
M Lập trình nhúng để thu nhận xử lý và truyền dữ liệu không dây với giải thuật MCFA Luận văn Kinh tế 0
S Báo cáo thí nghiệm kỹ thuật vi xử lý Kiến trúc, xây dựng 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top