Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành công chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan hệ xã hội quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội dung nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính khả thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành còn “nợ đọng”;…
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương” với hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Song, trong phạm vi của một đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân, em chỉ dừng lại xem xét, tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt động này.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê, kết hợp lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Luận văn được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Chương 2: Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và một số kiến nghị hoàn thiện.
Đây là một đề tài rộng và khó, với kiến thức còn hạn hẹp và thiếu kinh nghiệm thực tế nên mặc dù đã được sự chỉ bảo nhiệt tình và tận tâm của Cô giáo hướng dẫn cùng sự giúp đỡ của bè bạn, luận văn vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH.
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội đa dạng, phức tạp và không thể tách rời. Nhà nước hình thành để thực hiện nhiệm vụ tác động tới các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý theo ý chí của giai cấp thống trị. Thực hiện mục tiêu đó, Nhà nước phải sử dụng một công cụ điều chỉnh tồn tại song song với sự tồn tại của Nhà nước, đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành, phát triển bằng con đường nhà nước và Nhà nước chỉ tồn tại được khi có pháp luật. Nhà nước sử dụng pháp luật dưới nhiều hình thức như: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Trong những hình thức đó, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức tiến bộ nhất. Với những đặc điểm đặc biệt và ưu thế mà tập quán pháp, tiền lệ pháp không có, văn bản quy phạm pháp luật trở thành hình thức pháp luật chủ đạo và phù hợp nhất với kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dù vai trò của văn bản quy phạm pháp luật đã được nhận định từ lâu thì phải tới năm 1996, khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần đầu tiên ra đời, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định cụ thể và thống nhất. Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước, năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ra đời, vì vậy, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng có sự thay đổi: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hay phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này hay luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” (khoản 1, Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Căn cứ vào khái niệm văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải là các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 lại liệt kê các cá nhân có thẩm quyền ban hành như Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng Kiểm toán Nhà nước (khoản 2,5,6,7,8,9, Điều 2). Như vậy, có thể thấy giữa hai Điều luật này đã có sự không thống nhất, dễ tạo ra lầm tưởng về chủ thể ban hành văn bản. Sẽ hợp lý hơn nếu Luật quy định rõ văn bản quy phạm pháp luật do các cá nhân và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Với đề tài khóa luận “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương”, người viết xin đi sâu vào tìm hiểu thực trạng ban hành nhóm văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hay giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị xã hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (khoản 1,2,4,6,10,11, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Các cơ quan nhà nước ở trung ương là những cơ quan đầu não của cả nước, thể hiện tập trung nhất quyền lực của một chế độ xã hội. Vì vậy, văn bản quy phạm pháp luật do những chủ thể này ban hành có một vai trò rất đặc biệt. Nó không chỉ là những văn bản có phạm vi áp dụng rộng rãi nhất mà còn là cơ sở pháp lý để nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời. Giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành mang những đặc điểm sau:
Văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật.
Với vai trò quan trọng là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội , là cơ sở cho việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật do đó chỉ được ban hành bởi các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật. Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hay giữa các cơ quan nhà nước với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, các cá nhân cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước
Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là văn bản được ban hành bởi những chủ thể: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước với nhau hay với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội .
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà nước ở trung ương có hình thức do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là: tên gọi và thể thức của văn bản.
Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy định tên gọi của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên tịch. Việc quy định tên gọi của văn bản như trên đã thể hiện thẩm quyền về hình thức của các cơ quan ban hành văn bản: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan được quyền ban hành những loại văn bản nào và khi điều chỉnh một vấn đề pháp lý cụ thể, cơ quan ban hành phải ban hành đúng hình thức văn bản đó. Việc tuân thủ quy định về tên gọi nói riêng và hình thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói chung là điều kiện cần để khẳng định nội dung của văn bản (là có chứa quy phạm pháp luật). Đồng thời, nó còn giúp phân biệt với các loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác cũng như với văn bản do các cá nhân ban hành; xác định thứ bậc, hiệu lực của từng loại văn bản.
Bên cạnh tên gọi, pháp luật còn quy định về thể thức của văn bản quy phạm pháp luật. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là kết cấu về hình thức của văn bản. Hiện nay, thể thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói riêng và của các chủ thể có thẩm quyền nói chung được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản và Quyết định số 20/2002/QĐ-BKHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và công nghệ ban hành tiêu chuẩn Việt nam số 5700 năm 2002.
Bên cạnh việc đề cao hơn nữa thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, cần xác định rằng rà soát, hệ thống hóa là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Để thực hiện tốt điều đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan khác. Việc phối hợp này để thông tin, phát hiện, thu thập và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật, giúp giảm thiểu việc bỏ lọt văn bản trong quá trình rà soát, hệ thống hóa.
2.3.6 Thực hiện tốt hơn nữa hoạt động phân tích chính sách trong quy trình lập pháp.
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam tồn tại nhiều bất cập như: việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật kéo dài, không đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cũng như đòi hỏi ngày càng nhiều hơn số lượng các văn bản quy phạm pháp luật cần được ban hành, sửa đổi đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tình trạng luật “khung” còn khá phổ biến; những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật còn nhiều; văn bản quy phạm pháp luật ban hành không phù hợp;… là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, theo các chuyên gia và nhà khoa học thì nguyên nhân sâu xa, “cái gốc của vấn đề chính là ở chỗ, chúng ta đã không đưa được cuộc sống vào luật và nguyên nhân của lỗi lầm đó chủ yếu thuộc về những yếu kém trong nghiên cứu và hoạch định chính sách” [15]. Thực tiễn cho thấy, “một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp thời gian qua là chúng ta đã đồng nhất quy trình hoạch định và xây dựng chính sách với quy trình làm luật” [15], thậm chí việc xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhiều khi được Ban soạn thảo bắt đầu ngay bằng việc thiết kế các quy định, điều khoản trong khi chính sách lập pháp chưa được xác định.
Để khắc phục những khiếm khuyết đó trong quy trình lập pháp thì việc quy định về công đoạn phân tích chính sách một cách cụ thể, chi tiết là rất quan trọng. Đây phải được xác định là công đoạn đầu tiên của quy trình lập pháp và phải được tiến hành trước khi soạn thảo văn bản, bao gồm các bước: nhận biết vấn đề; phân tích, tìm nguyên nhân của vấn đề; tìm giải pháp (đưa ra chính sách) để xử lý vấn đề; nghiên cứu các vướng mắc về mặt pháp lý và nghiên cứu khả năng tài chính để đảm bảo triển khai các quy định của văn bản pháp luật dự kiến ban hành. Bên cạnh đó, kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước cho thấy có hai cách để tổ chức triển khai các công việc trong hoạt động phân tích chính sách một cách hiệu quả mà chúng ta cần nghiên cứu và học hỏi: 1- Khi có tất cả các dấu hiệu cho thấy một vấn đề nghiêm trọng đang phát sinh trong cuộc sống, Chính phủ sẽ thành lập một Ủy ban đặc biệt để xem xét và đưa các kiến nghị cần thiết. Theo cách làm củ Thụy Điển thì một số nghị sĩ cũng được tham gia ủy ban. Những vấn đề liên quan đến chính sách sẽ do ủy ban này nghiên cứu và báo cáo Chính phủ. Nếu cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chính phủ sẽ tổ chức biên soạn và trình Quốc hội; 2- Công việc phân tích chính sách do một bộ chuyên môn tiến hành. Bất luận theo cách nào thì chính sách đề ra đều phải được Chính phủ thảo luận, quyết định trước khi văn bản quy phạm được bắt đầu soạn thảo.
Như vậy, nói chung, trong quy trình lập pháp, việc lập chính sách bao giờ cũng phải được quyết định trước, việc soạn thảo chỉ được bắt đầu khi chính sách đã được làm rõ. Chính sách lập pháp đã được đề ra là của Chính phủ nên Chính phủ phải bảo vệ được chính sách đó trước Quốc hội. Cùng với đó, thay vì việc thành lập một Ban soạn thảo kiêm nhiệm với các thành phần đến từ các Bộ, ngành có liên quan nhằm đạt được một sự đồng thuận ít nhiều mang tính hình thức thì chúng ta nên thành lập một Ban soạn thảo chuyên trách chỉ làm nhiệm vụ duy nhất là chuyển hóa chính sách thành các điều khoản cụ thể. “Thiết kế phân tích chính sách là một công đoạn bắt buộc của quy trình lập pháp, là cơ sở quan trọng để tổ chức lại cách thức soạn thảo văn bản và đổi mới cách thức xây dựng và thông qua chương trình xây dựng pháp luật. Tất cả những điều đó sẽ góp phần cải tiến và hoàn thiện quy trình lập pháp của nước ta” [15].
KẾT LUẬN
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Với vị trí đầu não của bộ máy Nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có vai trò to lớn trong thực tiễn, là sự tiếp tục thể chế đường lối lãnh đạo của Đảng, là trụ cột cho cả hệ thống pháp luật và là cơ sở cho sự ra đời của nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác,… Có thể thấy, trong thời gian qua, với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng, các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã đạt được những thành tựu quan trọng trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật cả về số lượng và chất lượng. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành đã góp phần đắc lực trong công cuộc đổi mới đang diễn ra toàn diện và sâu sắc, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước, thiết lập và bảo đảm công bằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cũng như thích ứng được với lộ trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ như hiện nay cùng với việc thực hiện mục tiêu Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 do Bộ Chính trị đề ra: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, trọng tâm để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương luôn luôn phải được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Đây là một nhiệm vụ cấp thiết và xuyên suốt, tạo nên sự ổn định, nghiêm minh, đúng đắn cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Luận văn này được hoàn thành dựa trên sự kế thừa, học hỏi những kết quả nghiên cứu của những tác giả đi trước. Bên cạnh đó, người viết đã cố gắng nghiên cứu sâu hơn về thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Đó chính là điểm mới của luận văn. Tuy nhiên, do tính phức tạp và phạm vi rộng của đề tài nghiên cứu, luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Hy vọng trong thời gian tới, sẽ có nhiều tác giả tiếp tục nghiên cứu về đề tài này với sự phát triển ở tầm cao hơn, góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH…………………………………………………………………. 3
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật…………………………… 3
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành…………………………………………………… 5
1.3 Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………………………………... 9
1.4 Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành………………………………………………….. 13
Chương 2: THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG…. 18
2.1 Một số thành tựu trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………… 18
2.1.1 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành đã thể chế hóa được nhiều đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng………………………………………. 18
2.1.2 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản………………20
2.1.3 Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn………………………………………………………………….. 21
2.1.4 Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nhìn chung đã phù hợp với Điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập và kí kết…………………. 25
2.2 Những hạn chế trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………… 27
2.2.1 Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nhiều nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội……………….... 27
2.2.2 Tình trạng luật, pháp lệnh mang tính chung chung, tính tuyên ngôn, không cụ thể; bên cạnh đó, nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành ban hành còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng…………………………………………………… 29
2.2.3 Nội dung văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất………………………………. 32
2.2.4 Một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành chưa phù hợp với thực tiễn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện nay………………………………………………………………….. 37
2.2.5 Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương vẫn còn nhiều bất cập………………………………………………………………….. 40
2.3 Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương…………………………………………………………………... 48
2.3.1 Nâng cao chất lượng việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật……………………………………………. 48
2.3.2 Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật………. 49
2.3.3 Tăng cường hoạt động thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật………………………………………... 50
2.3.4 Thực hiện tốt việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân..... 52
2.3.5 Tăng cường công tác rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật……………………………… 53
2.3.6 Thực hiện tốt hơn nữa hoạt động phân tích chính sách trong quy trình lập pháp……………………………………………. 55
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 57
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành công chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan hệ xã hội quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội dung nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính khả thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành còn “nợ đọng”;…
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương” với hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Song, trong phạm vi của một đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân, em chỉ dừng lại xem xét, tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt động này.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê, kết hợp lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Luận văn được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Chương 2: Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và một số kiến nghị hoàn thiện.
Đây là một đề tài rộng và khó, với kiến thức còn hạn hẹp và thiếu kinh nghiệm thực tế nên mặc dù đã được sự chỉ bảo nhiệt tình và tận tâm của Cô giáo hướng dẫn cùng sự giúp đỡ của bè bạn, luận văn vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH.
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội đa dạng, phức tạp và không thể tách rời. Nhà nước hình thành để thực hiện nhiệm vụ tác động tới các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý theo ý chí của giai cấp thống trị. Thực hiện mục tiêu đó, Nhà nước phải sử dụng một công cụ điều chỉnh tồn tại song song với sự tồn tại của Nhà nước, đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành, phát triển bằng con đường nhà nước và Nhà nước chỉ tồn tại được khi có pháp luật. Nhà nước sử dụng pháp luật dưới nhiều hình thức như: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Trong những hình thức đó, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức tiến bộ nhất. Với những đặc điểm đặc biệt và ưu thế mà tập quán pháp, tiền lệ pháp không có, văn bản quy phạm pháp luật trở thành hình thức pháp luật chủ đạo và phù hợp nhất với kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dù vai trò của văn bản quy phạm pháp luật đã được nhận định từ lâu thì phải tới năm 1996, khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần đầu tiên ra đời, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định cụ thể và thống nhất. Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước, năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ra đời, vì vậy, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng có sự thay đổi: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hay phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này hay luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” (khoản 1, Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Căn cứ vào khái niệm văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải là các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 lại liệt kê các cá nhân có thẩm quyền ban hành như Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng Kiểm toán Nhà nước (khoản 2,5,6,7,8,9, Điều 2). Như vậy, có thể thấy giữa hai Điều luật này đã có sự không thống nhất, dễ tạo ra lầm tưởng về chủ thể ban hành văn bản. Sẽ hợp lý hơn nếu Luật quy định rõ văn bản quy phạm pháp luật do các cá nhân và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Với đề tài khóa luận “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương”, người viết xin đi sâu vào tìm hiểu thực trạng ban hành nhóm văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hay giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị xã hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (khoản 1,2,4,6,10,11, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Các cơ quan nhà nước ở trung ương là những cơ quan đầu não của cả nước, thể hiện tập trung nhất quyền lực của một chế độ xã hội. Vì vậy, văn bản quy phạm pháp luật do những chủ thể này ban hành có một vai trò rất đặc biệt. Nó không chỉ là những văn bản có phạm vi áp dụng rộng rãi nhất mà còn là cơ sở pháp lý để nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời. Giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành mang những đặc điểm sau:
Văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật.
Với vai trò quan trọng là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội , là cơ sở cho việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật do đó chỉ được ban hành bởi các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật. Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hay giữa các cơ quan nhà nước với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, các cá nhân cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước
Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là văn bản được ban hành bởi những chủ thể: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước với nhau hay với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội .
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà nước ở trung ương có hình thức do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là: tên gọi và thể thức của văn bản.
Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy định tên gọi của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên tịch. Việc quy định tên gọi của văn bản như trên đã thể hiện thẩm quyền về hình thức của các cơ quan ban hành văn bản: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan được quyền ban hành những loại văn bản nào và khi điều chỉnh một vấn đề pháp lý cụ thể, cơ quan ban hành phải ban hành đúng hình thức văn bản đó. Việc tuân thủ quy định về tên gọi nói riêng và hình thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói chung là điều kiện cần để khẳng định nội dung của văn bản (là có chứa quy phạm pháp luật). Đồng thời, nó còn giúp phân biệt với các loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác cũng như với văn bản do các cá nhân ban hành; xác định thứ bậc, hiệu lực của từng loại văn bản.
Bên cạnh tên gọi, pháp luật còn quy định về thể thức của văn bản quy phạm pháp luật. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là kết cấu về hình thức của văn bản. Hiện nay, thể thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói riêng và của các chủ thể có thẩm quyền nói chung được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản và Quyết định số 20/2002/QĐ-BKHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và công nghệ ban hành tiêu chuẩn Việt nam số 5700 năm 2002.
Bên cạnh việc đề cao hơn nữa thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, cần xác định rằng rà soát, hệ thống hóa là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Để thực hiện tốt điều đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan khác. Việc phối hợp này để thông tin, phát hiện, thu thập và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật, giúp giảm thiểu việc bỏ lọt văn bản trong quá trình rà soát, hệ thống hóa.
2.3.6 Thực hiện tốt hơn nữa hoạt động phân tích chính sách trong quy trình lập pháp.
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam tồn tại nhiều bất cập như: việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật kéo dài, không đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cũng như đòi hỏi ngày càng nhiều hơn số lượng các văn bản quy phạm pháp luật cần được ban hành, sửa đổi đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tình trạng luật “khung” còn khá phổ biến; những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật còn nhiều; văn bản quy phạm pháp luật ban hành không phù hợp;… là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, theo các chuyên gia và nhà khoa học thì nguyên nhân sâu xa, “cái gốc của vấn đề chính là ở chỗ, chúng ta đã không đưa được cuộc sống vào luật và nguyên nhân của lỗi lầm đó chủ yếu thuộc về những yếu kém trong nghiên cứu và hoạch định chính sách” [15]. Thực tiễn cho thấy, “một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp thời gian qua là chúng ta đã đồng nhất quy trình hoạch định và xây dựng chính sách với quy trình làm luật” [15], thậm chí việc xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhiều khi được Ban soạn thảo bắt đầu ngay bằng việc thiết kế các quy định, điều khoản trong khi chính sách lập pháp chưa được xác định.
Để khắc phục những khiếm khuyết đó trong quy trình lập pháp thì việc quy định về công đoạn phân tích chính sách một cách cụ thể, chi tiết là rất quan trọng. Đây phải được xác định là công đoạn đầu tiên của quy trình lập pháp và phải được tiến hành trước khi soạn thảo văn bản, bao gồm các bước: nhận biết vấn đề; phân tích, tìm nguyên nhân của vấn đề; tìm giải pháp (đưa ra chính sách) để xử lý vấn đề; nghiên cứu các vướng mắc về mặt pháp lý và nghiên cứu khả năng tài chính để đảm bảo triển khai các quy định của văn bản pháp luật dự kiến ban hành. Bên cạnh đó, kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước cho thấy có hai cách để tổ chức triển khai các công việc trong hoạt động phân tích chính sách một cách hiệu quả mà chúng ta cần nghiên cứu và học hỏi: 1- Khi có tất cả các dấu hiệu cho thấy một vấn đề nghiêm trọng đang phát sinh trong cuộc sống, Chính phủ sẽ thành lập một Ủy ban đặc biệt để xem xét và đưa các kiến nghị cần thiết. Theo cách làm củ Thụy Điển thì một số nghị sĩ cũng được tham gia ủy ban. Những vấn đề liên quan đến chính sách sẽ do ủy ban này nghiên cứu và báo cáo Chính phủ. Nếu cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chính phủ sẽ tổ chức biên soạn và trình Quốc hội; 2- Công việc phân tích chính sách do một bộ chuyên môn tiến hành. Bất luận theo cách nào thì chính sách đề ra đều phải được Chính phủ thảo luận, quyết định trước khi văn bản quy phạm được bắt đầu soạn thảo.
Như vậy, nói chung, trong quy trình lập pháp, việc lập chính sách bao giờ cũng phải được quyết định trước, việc soạn thảo chỉ được bắt đầu khi chính sách đã được làm rõ. Chính sách lập pháp đã được đề ra là của Chính phủ nên Chính phủ phải bảo vệ được chính sách đó trước Quốc hội. Cùng với đó, thay vì việc thành lập một Ban soạn thảo kiêm nhiệm với các thành phần đến từ các Bộ, ngành có liên quan nhằm đạt được một sự đồng thuận ít nhiều mang tính hình thức thì chúng ta nên thành lập một Ban soạn thảo chuyên trách chỉ làm nhiệm vụ duy nhất là chuyển hóa chính sách thành các điều khoản cụ thể. “Thiết kế phân tích chính sách là một công đoạn bắt buộc của quy trình lập pháp, là cơ sở quan trọng để tổ chức lại cách thức soạn thảo văn bản và đổi mới cách thức xây dựng và thông qua chương trình xây dựng pháp luật. Tất cả những điều đó sẽ góp phần cải tiến và hoàn thiện quy trình lập pháp của nước ta” [15].
KẾT LUẬN
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Với vị trí đầu não của bộ máy Nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có vai trò to lớn trong thực tiễn, là sự tiếp tục thể chế đường lối lãnh đạo của Đảng, là trụ cột cho cả hệ thống pháp luật và là cơ sở cho sự ra đời của nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác,… Có thể thấy, trong thời gian qua, với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng, các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã đạt được những thành tựu quan trọng trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật cả về số lượng và chất lượng. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành đã góp phần đắc lực trong công cuộc đổi mới đang diễn ra toàn diện và sâu sắc, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước, thiết lập và bảo đảm công bằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cũng như thích ứng được với lộ trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ như hiện nay cùng với việc thực hiện mục tiêu Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 do Bộ Chính trị đề ra: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, trọng tâm để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương luôn luôn phải được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Đây là một nhiệm vụ cấp thiết và xuyên suốt, tạo nên sự ổn định, nghiêm minh, đúng đắn cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Luận văn này được hoàn thành dựa trên sự kế thừa, học hỏi những kết quả nghiên cứu của những tác giả đi trước. Bên cạnh đó, người viết đã cố gắng nghiên cứu sâu hơn về thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Đó chính là điểm mới của luận văn. Tuy nhiên, do tính phức tạp và phạm vi rộng của đề tài nghiên cứu, luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Hy vọng trong thời gian tới, sẽ có nhiều tác giả tiếp tục nghiên cứu về đề tài này với sự phát triển ở tầm cao hơn, góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH…………………………………………………………………. 3
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật…………………………… 3
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành…………………………………………………… 5
1.3 Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………………………………... 9
1.4 Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành………………………………………………….. 13
Chương 2: THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG…. 18
2.1 Một số thành tựu trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………… 18
2.1.1 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành đã thể chế hóa được nhiều đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng………………………………………. 18
2.1.2 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản………………20
2.1.3 Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn………………………………………………………………….. 21
2.1.4 Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nhìn chung đã phù hợp với Điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập và kí kết…………………. 25
2.2 Những hạn chế trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương………………………… 27
2.2.1 Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nhiều nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội……………….... 27
2.2.2 Tình trạng luật, pháp lệnh mang tính chung chung, tính tuyên ngôn, không cụ thể; bên cạnh đó, nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành ban hành còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng…………………………………………………… 29
2.2.3 Nội dung văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất………………………………. 32
2.2.4 Một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành chưa phù hợp với thực tiễn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện nay………………………………………………………………….. 37
2.2.5 Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương vẫn còn nhiều bất cập………………………………………………………………….. 40
2.3 Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương…………………………………………………………………... 48
2.3.1 Nâng cao chất lượng việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật……………………………………………. 48
2.3.2 Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật………. 49
2.3.3 Tăng cường hoạt động thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật………………………………………... 50
2.3.4 Thực hiện tốt việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân..... 52
2.3.5 Tăng cường công tác rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật……………………………… 53
2.3.6 Thực hiện tốt hơn nữa hoạt động phân tích chính sách trong quy trình lập pháp……………………………………………. 55
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 57
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: báo cáo đánh giá thực trạng thi hành luật ban hành văn bản, báo cáo đánh giá thực trạng luật ban hành văn bản pháp luật, thực trạng van ban hanh chinh trong co quan nha nuoc, THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN HIỆN NAY CỦA MỘT SỐ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY, trình bày cơ sở hình thàn các hình thức pháp luật: tập quan pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật, Phân tích ưu thế của văn bản quy phạm pháp luật so với tiền lệ pháp và tập quán pháp, Đổi mới về phương pháp và cách thức tổ chức thẩm định văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn hiện nay, Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan trung ương thực hiện, thực trạng đánh giá văn bản ở cơ quan nhà nước, THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG, thực trạng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quản lí nhà nước cấp trung ương
Last edited by a moderator: