kunk0n_koolkucki
New Member
Download Đề tài Thực trạng bội chi ngân sách Việt Nam năm 2010
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm , bởi nó không chỉ tác động trước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia .Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như : giá dầu tăng cao .khủng hoảng tái chính tại mỹ ,tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới,vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở việt nam .Vậy xử lý bội chi ngan sách như thế nào đẻ ỏn định vĩ mô ,thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế -xã hội ,tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay ?
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường lam các nhà chính trị gia đau đầu giữa một bên là phát triển bền vững ,duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn .Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai .Từ sự lưa chọn đó họ đưa ra mức bọi chi hợp lý ,bảo đảm nhu cầu tài trợ cho tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế ,đòng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý .Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là là sự vượt trọi về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hay thâm hụt ngân sách do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô . Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế ,phí ,lệ phí ; giảm chi ngân sách ;vay nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ;phát hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ; Sử dụng phương pháp nào ,nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia .
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
2 . Tình hình lạm phát hiện nay và những nguyên nhân
Kể từ nửa cuối năm 2007 đến nay, lạm phát luôn là vấn đề nóng bỏng trên các bàn thảo luận, cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Theo dự báo, chỉ số giá tiêu dùng các tháng còn lại của năm 2008 có thể giao động từ 1,1%/ tháng đến 1,5%/ tháng, nếu lấy mức trung bình là 1,3%/ tháng, thì 5 tháng còn lại sẽ tăng 6,5%, tính cả năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng sẽ là 26,28%. Thực tế cho thấy, do lạm phát nên tình hình kinh tế – xã hội đã phát sinh nhiều biến động lớn gây ra không ít khó khăn cho sự tăng trưởng kinh tế và đời sống nhân dân:
Một là, lạm phát đã làm cho giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng, trong đó có những loại tác động trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng (6 tháng đầu năm 2008 giá xăng dầu nhập khẩu tăng 61,8%, sắt thép tăng 29,8%…), đời sống người lao động bị tác động trực tiếp bởi sự tăng giá lương thực, thực phẩm. Sáu tháng đầu năm 2008 so với tháng 12 năm 2007, giá lương thực tăng 57%, thực phẩm tăng 22,44%, ăn uống ngoài gia đình tăng 24,6%… Tính đến hết tháng 7 năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã bằng 121,28% so với cùng kỳ năm 2007 (tăng 21,28%) và bằng 119,78% so với cuối năm 2007 (tăng 19,7%, tính trung bình mỗi tháng tăng 2,83%).
Hai là, với biện pháp khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức 30%, nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại định lãi suất kinh doanh phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường, tạo mặt bằng lãi suất huy động, cho vay hợp lý khiến cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn về vay vốn kinh doanh và phải chịu lãi suất rất cao. Chính vì vậy, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và xã hội sẽ tăng cao làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế, mặt khác làm yếu sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, kinh tế vĩ mô có những dấu hiệu đi xuống do tác động của lạm phát (Chính phủ đã phải đề nghị Quốc hội phê duyệt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 chỉ còn khoảng 7%). Nhiều doanh nghiệp phải giảm quy mô sản xuất, thậm chí có những doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có thể phá sản.
Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Do chi phí đẩy (giá dầu tăng cao, nhập siêu lớn trong điều kiện tỷ giá biến động, chi phí sử dụng vốn tăng, tác động của các chính sách vĩ mô…);
Do cầu kéo (khủng hoảng lương thực thế giới, dịch bệnh triền miên… làm lượng nhiều loại hàng hóa bị suy giảm, tuy nhiên tổng lượng cầu hàng hóa vẫn có xu hướng gia tăng);
Do tác động của chính sách tiền tệ (riêng năm 2007, cung tiền M2 tăng trưởng với tốc độ kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, với con số 35%, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tương đối lớn…).
Do yếu tố tâm lý (người tiêu dùng chạy theo các tin đồn từ đó làm tăng lượng cầu đột biến, không chuyển tiền của mình sang đầu tư sản xuất – kinh doanh mà mua vàng, kim loại quý…).
Vấn đề quản lý NSNN chưa sát với tình hình lạm phát trong thời gian vừa qua. Đầu năm 2006, những dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện, nhưng trong quản lý và điều hành NSNN vẫn chưa đánh giá hết tác động của nó nên việc đầu tư công vẫn còn quá lớn và chưa hiệu quả. Chi thường xuyên chưa được giám sát chặt chẽ nên còn lãng phí, xử lý bội chi NSNN vẫn còn chưa quyết liệt. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, các nguyên nhân trên vẫn đang tiềm ẩn và từng ngày tác động làm gia tăng lạm phát, vì vậy, xu hướng gia tăng này trong các tháng còn lại của năm 2008 là điều khó tránh khỏi.
Như vậy, trong 5 nguyên nhân chủ yếu gây ra tình hình lạm phát trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, nguyên nhân xử lý bội chi NSNN vẫn còn thiếu quyết liệt. Do vậy, để kiềm chế lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm chế lạm phát mà Chính phủ, cũng như các bộ, ngành đang thực thi, vấn đề quản lý chặt tình hình chi NSNN như: chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước, đầu tư công… thông qua việc xử lý bội chi NSNN là vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
3 . Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát
Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN:
- Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh t
Download Đề tài Thực trạng bội chi ngân sách Việt Nam năm 2010 miễn phí
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm , bởi nó không chỉ tác động trước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia .Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như : giá dầu tăng cao .khủng hoảng tái chính tại mỹ ,tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới,vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở việt nam .Vậy xử lý bội chi ngan sách như thế nào đẻ ỏn định vĩ mô ,thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế -xã hội ,tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay ?
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường lam các nhà chính trị gia đau đầu giữa một bên là phát triển bền vững ,duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn .Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai .Từ sự lưa chọn đó họ đưa ra mức bọi chi hợp lý ,bảo đảm nhu cầu tài trợ cho tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế ,đòng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý .Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là là sự vượt trọi về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hay thâm hụt ngân sách do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô . Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế ,phí ,lệ phí ; giảm chi ngân sách ;vay nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ;phát hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ; Sử dụng phương pháp nào ,nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia .
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
g 5,8% GDP, giảm 0,4% so với mục chỉ tiêu của Nghị quyết Quốc hội là 6,2% GDP.Bộ Tài chính cho biết năm 2010 các công cụ thuế, phí, lệ phí... đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được sử dụng linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước để hạn chế nhập siêu.Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử, hiện đại hóa thu NSNN nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ năm 2011 là tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội.Những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, sẽ được vận dụng linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, khẩn trương nghiên cứu để hình thành quỹ xúc tiến nhập khẩu công nghệ nguồn trên cơ sở quỹ xúc tiến xuất khẩu, trong đó tính toán tỷ lệ đóng góp hợp lý giữa nhà nước và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để hình thành quỹ.Bộ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển đồng bộ các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản…Quản lý giá theo cơ chế thị trường.Cụ thể, năm 2011 tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh giá theo cơ chế giá thị trường vào thời điểm thích hợp trong năm đối với giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu Nhà nước còn định giá.Tăng cường quản lý giá thông qua các biện pháp: kiểm soát các yếu tố hình thành giá, đăng ký giá, kê khai giá; Kiên quyết ngừng việc đăng ký giá có mức tăng giá không hợp lý.Kiểm soát đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền, ngăn chặn và kiên quyết xử lý hành vi liên kết và lạm dụng vị thế thị trường để tăng giá bất hợp lý, nhất là các nguyên liệu đầu vào quan trọng của sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu2 . Tình hình lạm phát hiện nay và những nguyên nhân
Kể từ nửa cuối năm 2007 đến nay, lạm phát luôn là vấn đề nóng bỏng trên các bàn thảo luận, cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Theo dự báo, chỉ số giá tiêu dùng các tháng còn lại của năm 2008 có thể giao động từ 1,1%/ tháng đến 1,5%/ tháng, nếu lấy mức trung bình là 1,3%/ tháng, thì 5 tháng còn lại sẽ tăng 6,5%, tính cả năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng sẽ là 26,28%. Thực tế cho thấy, do lạm phát nên tình hình kinh tế – xã hội đã phát sinh nhiều biến động lớn gây ra không ít khó khăn cho sự tăng trưởng kinh tế và đời sống nhân dân:
Một là, lạm phát đã làm cho giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng, trong đó có những loại tác động trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng (6 tháng đầu năm 2008 giá xăng dầu nhập khẩu tăng 61,8%, sắt thép tăng 29,8%…), đời sống người lao động bị tác động trực tiếp bởi sự tăng giá lương thực, thực phẩm. Sáu tháng đầu năm 2008 so với tháng 12 năm 2007, giá lương thực tăng 57%, thực phẩm tăng 22,44%, ăn uống ngoài gia đình tăng 24,6%… Tính đến hết tháng 7 năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã bằng 121,28% so với cùng kỳ năm 2007 (tăng 21,28%) và bằng 119,78% so với cuối năm 2007 (tăng 19,7%, tính trung bình mỗi tháng tăng 2,83%).
Hai là, với biện pháp khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức 30%, nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại định lãi suất kinh doanh phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường, tạo mặt bằng lãi suất huy động, cho vay hợp lý khiến cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn về vay vốn kinh doanh và phải chịu lãi suất rất cao. Chính vì vậy, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và xã hội sẽ tăng cao làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế, mặt khác làm yếu sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, kinh tế vĩ mô có những dấu hiệu đi xuống do tác động của lạm phát (Chính phủ đã phải đề nghị Quốc hội phê duyệt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 chỉ còn khoảng 7%). Nhiều doanh nghiệp phải giảm quy mô sản xuất, thậm chí có những doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có thể phá sản.
Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Do chi phí đẩy (giá dầu tăng cao, nhập siêu lớn trong điều kiện tỷ giá biến động, chi phí sử dụng vốn tăng, tác động của các chính sách vĩ mô…);
Do cầu kéo (khủng hoảng lương thực thế giới, dịch bệnh triền miên… làm lượng nhiều loại hàng hóa bị suy giảm, tuy nhiên tổng lượng cầu hàng hóa vẫn có xu hướng gia tăng);
Do tác động của chính sách tiền tệ (riêng năm 2007, cung tiền M2 tăng trưởng với tốc độ kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, với con số 35%, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tương đối lớn…).
Do yếu tố tâm lý (người tiêu dùng chạy theo các tin đồn từ đó làm tăng lượng cầu đột biến, không chuyển tiền của mình sang đầu tư sản xuất – kinh doanh mà mua vàng, kim loại quý…).
Vấn đề quản lý NSNN chưa sát với tình hình lạm phát trong thời gian vừa qua. Đầu năm 2006, những dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện, nhưng trong quản lý và điều hành NSNN vẫn chưa đánh giá hết tác động của nó nên việc đầu tư công vẫn còn quá lớn và chưa hiệu quả. Chi thường xuyên chưa được giám sát chặt chẽ nên còn lãng phí, xử lý bội chi NSNN vẫn còn chưa quyết liệt. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, các nguyên nhân trên vẫn đang tiềm ẩn và từng ngày tác động làm gia tăng lạm phát, vì vậy, xu hướng gia tăng này trong các tháng còn lại của năm 2008 là điều khó tránh khỏi.
Như vậy, trong 5 nguyên nhân chủ yếu gây ra tình hình lạm phát trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, nguyên nhân xử lý bội chi NSNN vẫn còn thiếu quyết liệt. Do vậy, để kiềm chế lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm chế lạm phát mà Chính phủ, cũng như các bộ, ngành đang thực thi, vấn đề quản lý chặt tình hình chi NSNN như: chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước, đầu tư công… thông qua việc xử lý bội chi NSNN là vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
3 . Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát
Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN:
- Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh t