Download Đề tài Thực trạng và giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại TP HCM
Xét riêng về TP.HCM cũng có những mặt hạn chế riêng trong việc thu hút FDI cần khắc phục:
- Có những vấn đề thành phố chưa thật sự sẵn sàng cũng như chưa hoàn thiện quy hoạch nên nhà đầu tư chưa tìm được điểm vừa ý. Thành phố có các dự án mà vốn đầu tư hàng tỷ USD nhưng cho đến nay, sau thời gian chờ “dài cổ” vẫn chưa có đất để triển khai quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Thủ tục giải tỏa, đền bù còn rườm rà.
- Đất đai và cơ sở hạ tầng của thành phố giá cao hơn các địa phương khác, lại không còn nhiều-quỹ đất đai đã giải phóng mặt bằng để sẵn sàng giao cho nhà đầu tư còn rất ít.
- Hạ tầng cơ sở và ngành công nghiệp phụ trợ còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính giấy tờ có qui trình xử lý nhưng vẫn còn chậm. Nhiều nhà đầu tư đã ngán ngẫm với khái niệm “thủ thục đầu tiên” (tiền đâu) với cái giấy đăng kí kinh doanh; thủ tục đất đai cũng làm nhiều doanh nghiệp phải nản lòng vì vẫn vô cùng phức tạp; giao thông thường hay ùn tắc, kẹt xe làm ảnh hưởng đến tiến trình vận chuyển sản phẩm
- Nhìn lại, phần nhiều các dự án đầu tư không đi tới đích, sai qui hoạch, vỡ kế hoạch, thậm chí đánh mất dự án là do thiếu mặt bằng, thiếu lao động có trình độ tay nghề cao để đáp ứng theo yêu cầu của nhà đầu tư. Ví dụ như INTEL chỉ mới đầu tư dự án 1tỷ USD vào TP.HCM thôi nhưng chúng ta cũng không đủ nhân lực cho họ thì đến những dự án lớn hơn sẽ như thế nào.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
- Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa.
- Giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc.
1.3.2. Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc:
Những kỷ lục về thành tích thì thật ngoạn mục.Vậy một câu hỏi dĩ nhiên nảy sinh là những nguyên nhân nào dẫn đến kết cục thuận lợi này?
-Trước hết có thề nói, Trung Quốc có một thị trường rộng lớn, đặc biệt quy mô thị trường có tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu.
- Có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ Hồng Kông và Đài Loan.
- Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong khu vực.
- Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà nước.
1.3.3. Những tồn tại và khó khăn:
- Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75%, còn Trung Quốc chỉ chiếm 47% FDI.
- FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch phát triển giữa các vùng.
- Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hay nửa cuối những năm 1990 là khoảng 14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút ĐTTT nước ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của nước đi trước, đặc biệt là nước Trung Quốc, vì có những điểm tương tự với nước ta. Từ đó, có thể rút ra cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà các nước này đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng FDI ở TP.HCM.Thành tựu, hạn chế trong việc thu hút FDI của thành phố.
2.1. Thực trạng thu hút vốn ĐTTT nước ngoài của TP.HCM:
TP.HCM là một thành phố lớn của cả nước, đồng thời cũng là trung tâm phát triển nhiều mặt của Việt Nam. Do vị trí thuận lợi, giống như Thượng Hải của Trung Quốc, Osaka của Nhật Bản, TP.HCM trong nhiều năm qua được biết đến như là một trung tâm kinh tế và là một thị trường năng động nhất cả nước. Với nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống giao thông khá thuận lợi và hệ thống các khu công nghiệp tập trung đã và đang được xây dựng nên có sức hấp dẫn khá lớn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2009 TPHCM thu hút được khoảng 20 tỉ đô la.Tuy nhiên con số này chỉ bằng hơn một nửa so với năm 2008. Sự suy giảm này có nguyên nhân của suy giảm kinh tế toàn cầu, mặt khác những dự án lơn như lọc dầu, sản xuất thép, khu du lịch sinh thái với quy mô vài tỉ đô la/ dự án như năm 2008 sẽ ít đi. Đây chỉ là dựa vào số vốn được đăng ký. Nhưng thực ra vốn nước ngoài giải ngân để thực hiện dự án bằng khoảng một nửa vốn đăng ký
Trước hết là do một số dự án được cấp phép nhưng vì nhiều lý do không triển khai được, bị rút giấy phép với số vốn chiếm khoảng 10% tổng vốn đăng ký
Thứ hai, trong vốn đăng ký có phần góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, thường khoảng 30% tính cả các dự án 100% vốn nước ngoài (20% tổng vốn đăng ký) thì vốn góp của bên Việt Nam còn chiếm 20% tổng vốn đăng ký
Thứ ba, vốn pháp định hay vốn điều lệ mới là qui định có tính pháp lý buộc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thực hiện dự án, tỷ lệ này độ 40%. Còn lại 60% là vốn vay, trong đó khoảng 30% huy động trong nước, bằng 18% tổng vốn đăng ký.
Một khía cạnh khác. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, đầu tư ra nước ngoài giảm gần 50%. Nếu tính đến tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu thì vốn FDI nước ngoài giải ngân năm 2009 có thể giảm tới 20% so với năm 2008. Theo đó, vốn nước ngoài giải ngân bằng khoảng 80% của 8,5 tỉ đô la năm 2008, tức 6,8 tỉ đô la, tương đương 115.600 tỉ đồng. So với kế hoạch đề ra, vốn FDI giải ngân giảm 67.400 tỉ đồng (183.000 -115.600 tỉ đồng), chiếm 3,7% GDP. Tính toán trên cơ sở vốn đầu tư phát triển vẫn đóng góp khoảng 60% cho tăng trưởng, hệ số ICOR của năm 2009 là 6 thì riêng việc vốn FDI giải ngân giảm làm GDP mất 0,36 điểm phần trăm.
Trong các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép, có 84 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp, tổng vốn đầu tư 688,8 triệu USD, 77 dự án ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tổng vốn đầu tư 127 triệu USD, trong đó có 40 dự án đầu tư vào ngành công nghệ thông tin, 18 dự án đầu tư vào ngành xây dựng, vốn đầu tư 21,1 triệu USD và 14 dự án đầu tư vào ngành vận tải, vốn đầu tư 428,3 triệu USD, trong đó có 1 dự án mới được cấp phép là dự án liên doanh giữa cảng Sài Gòn và Công ty SSA Holding International- VietNam xây dựng và khai thác cảng container quốc tế với vốn đầu tư 160 triệu USD.
Được biết, có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại TP.HCM, trong đó Hàn Quốc có 51 dự án, tổng vốn đầu tư 102,7 triệu USD, Nhật Bản 37 dự án, vốn đầu tư 45,8 triệu USD, Singapore 20 dự án, vốn đầu tư 58,5 triệu USD, Đài Loan 16 dự án, vốn đầu tư 41,9 triệu USD, British Virgin Islans có 10 dự án, vốn đầu tư 285,8 triệu USD, Hong Kong 4 dự án, vốn đầu tư 606,6 triệu USD.
Và theo thống kê của Bộ kế hoạch Vốn đầu tư đạt trên 117 triệu USD (tăng gần 60%) so với cùng kỳ năm ngoái. Đài Loan luôn đứng đầu về số vốn và dự án đầu tư vào thành phố, với 335 dự án, kế đến là Hàn Quốc (254 dự án), đứng thứ 3 là Singapore với 152 dự án.
Với kết quả khả quan như trên, cùng những chính s...
Download Đề tài Thực trạng và giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại TP HCM miễn phí
Xét riêng về TP.HCM cũng có những mặt hạn chế riêng trong việc thu hút FDI cần khắc phục:
- Có những vấn đề thành phố chưa thật sự sẵn sàng cũng như chưa hoàn thiện quy hoạch nên nhà đầu tư chưa tìm được điểm vừa ý. Thành phố có các dự án mà vốn đầu tư hàng tỷ USD nhưng cho đến nay, sau thời gian chờ “dài cổ” vẫn chưa có đất để triển khai quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Thủ tục giải tỏa, đền bù còn rườm rà.
- Đất đai và cơ sở hạ tầng của thành phố giá cao hơn các địa phương khác, lại không còn nhiều-quỹ đất đai đã giải phóng mặt bằng để sẵn sàng giao cho nhà đầu tư còn rất ít.
- Hạ tầng cơ sở và ngành công nghiệp phụ trợ còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính giấy tờ có qui trình xử lý nhưng vẫn còn chậm. Nhiều nhà đầu tư đã ngán ngẫm với khái niệm “thủ thục đầu tiên” (tiền đâu) với cái giấy đăng kí kinh doanh; thủ tục đất đai cũng làm nhiều doanh nghiệp phải nản lòng vì vẫn vô cùng phức tạp; giao thông thường hay ùn tắc, kẹt xe làm ảnh hưởng đến tiến trình vận chuyển sản phẩm
- Nhìn lại, phần nhiều các dự án đầu tư không đi tới đích, sai qui hoạch, vỡ kế hoạch, thậm chí đánh mất dự án là do thiếu mặt bằng, thiếu lao động có trình độ tay nghề cao để đáp ứng theo yêu cầu của nhà đầu tư. Ví dụ như INTEL chỉ mới đầu tư dự án 1tỷ USD vào TP.HCM thôi nhưng chúng ta cũng không đủ nhân lực cho họ thì đến những dự án lớn hơn sẽ như thế nào.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
DI có mặt ở nhiều ngành Công nghiệp của Trung Quốc, đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 7% năm 1990 lên 28% năm 2000. Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (gấp đôi so với doanh nghiệp nhà nước).- Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa.
- Giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc.
1.3.2. Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc:
Những kỷ lục về thành tích thì thật ngoạn mục.Vậy một câu hỏi dĩ nhiên nảy sinh là những nguyên nhân nào dẫn đến kết cục thuận lợi này?
-Trước hết có thề nói, Trung Quốc có một thị trường rộng lớn, đặc biệt quy mô thị trường có tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu.
- Có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ Hồng Kông và Đài Loan.
- Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong khu vực.
- Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà nước.
1.3.3. Những tồn tại và khó khăn:
- Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75%, còn Trung Quốc chỉ chiếm 47% FDI.
- FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch phát triển giữa các vùng.
- Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hay nửa cuối những năm 1990 là khoảng 14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút ĐTTT nước ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của nước đi trước, đặc biệt là nước Trung Quốc, vì có những điểm tương tự với nước ta. Từ đó, có thể rút ra cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà các nước này đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng FDI ở TP.HCM.Thành tựu, hạn chế trong việc thu hút FDI của thành phố.
2.1. Thực trạng thu hút vốn ĐTTT nước ngoài của TP.HCM:
TP.HCM là một thành phố lớn của cả nước, đồng thời cũng là trung tâm phát triển nhiều mặt của Việt Nam. Do vị trí thuận lợi, giống như Thượng Hải của Trung Quốc, Osaka của Nhật Bản, TP.HCM trong nhiều năm qua được biết đến như là một trung tâm kinh tế và là một thị trường năng động nhất cả nước. Với nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống giao thông khá thuận lợi và hệ thống các khu công nghiệp tập trung đã và đang được xây dựng nên có sức hấp dẫn khá lớn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2009 TPHCM thu hút được khoảng 20 tỉ đô la.Tuy nhiên con số này chỉ bằng hơn một nửa so với năm 2008. Sự suy giảm này có nguyên nhân của suy giảm kinh tế toàn cầu, mặt khác những dự án lơn như lọc dầu, sản xuất thép, khu du lịch sinh thái với quy mô vài tỉ đô la/ dự án như năm 2008 sẽ ít đi. Đây chỉ là dựa vào số vốn được đăng ký. Nhưng thực ra vốn nước ngoài giải ngân để thực hiện dự án bằng khoảng một nửa vốn đăng ký
Trước hết là do một số dự án được cấp phép nhưng vì nhiều lý do không triển khai được, bị rút giấy phép với số vốn chiếm khoảng 10% tổng vốn đăng ký
Thứ hai, trong vốn đăng ký có phần góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, thường khoảng 30% tính cả các dự án 100% vốn nước ngoài (20% tổng vốn đăng ký) thì vốn góp của bên Việt Nam còn chiếm 20% tổng vốn đăng ký
Thứ ba, vốn pháp định hay vốn điều lệ mới là qui định có tính pháp lý buộc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thực hiện dự án, tỷ lệ này độ 40%. Còn lại 60% là vốn vay, trong đó khoảng 30% huy động trong nước, bằng 18% tổng vốn đăng ký.
Một khía cạnh khác. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, đầu tư ra nước ngoài giảm gần 50%. Nếu tính đến tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu thì vốn FDI nước ngoài giải ngân năm 2009 có thể giảm tới 20% so với năm 2008. Theo đó, vốn nước ngoài giải ngân bằng khoảng 80% của 8,5 tỉ đô la năm 2008, tức 6,8 tỉ đô la, tương đương 115.600 tỉ đồng. So với kế hoạch đề ra, vốn FDI giải ngân giảm 67.400 tỉ đồng (183.000 -115.600 tỉ đồng), chiếm 3,7% GDP. Tính toán trên cơ sở vốn đầu tư phát triển vẫn đóng góp khoảng 60% cho tăng trưởng, hệ số ICOR của năm 2009 là 6 thì riêng việc vốn FDI giải ngân giảm làm GDP mất 0,36 điểm phần trăm.
Trong các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép, có 84 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp, tổng vốn đầu tư 688,8 triệu USD, 77 dự án ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tổng vốn đầu tư 127 triệu USD, trong đó có 40 dự án đầu tư vào ngành công nghệ thông tin, 18 dự án đầu tư vào ngành xây dựng, vốn đầu tư 21,1 triệu USD và 14 dự án đầu tư vào ngành vận tải, vốn đầu tư 428,3 triệu USD, trong đó có 1 dự án mới được cấp phép là dự án liên doanh giữa cảng Sài Gòn và Công ty SSA Holding International- VietNam xây dựng và khai thác cảng container quốc tế với vốn đầu tư 160 triệu USD.
Được biết, có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại TP.HCM, trong đó Hàn Quốc có 51 dự án, tổng vốn đầu tư 102,7 triệu USD, Nhật Bản 37 dự án, vốn đầu tư 45,8 triệu USD, Singapore 20 dự án, vốn đầu tư 58,5 triệu USD, Đài Loan 16 dự án, vốn đầu tư 41,9 triệu USD, British Virgin Islans có 10 dự án, vốn đầu tư 285,8 triệu USD, Hong Kong 4 dự án, vốn đầu tư 606,6 triệu USD.
Và theo thống kê của Bộ kế hoạch Vốn đầu tư đạt trên 117 triệu USD (tăng gần 60%) so với cùng kỳ năm ngoái. Đài Loan luôn đứng đầu về số vốn và dự án đầu tư vào thành phố, với 335 dự án, kế đến là Hàn Quốc (254 dự án), đứng thứ 3 là Singapore với 152 dự án.
Với kết quả khả quan như trên, cùng những chính s...