chauminhlinh
New Member
Download miễn phí Đề tài Thực trạng và tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
Nước ta hiện nay có khoảng 700.000 cán bộ có trình độ đại học 7000-8000 cán bộ có trình độ thạc sỹ trở lên và khoảng 1000.000 công nhân được đào tạo có tay nghề. Đặc điểm lớn nhất của đội ngũ này là được đào tạo trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung và điều kiện của công nghệ lạc hậu của các nước XHCN cũ. Hiện nay nhiều lĩnh vực kinh tế mũi nhọn đang thiếu chuyên gia giỏi và cán bộ khoa học kỹ thuật đầu đàn. Tỷ lệ công nhân bậc cao trong các doanh nghiệp rất hạn chế (7,8% công nhân là công nhân bậc 5 trở lên trong các doanh nghiệp Nhà nước. Do trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật yếu kém, nên sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao, thiếu sức cạnh tranh.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-18-de_tai_thuc_trang_va_tiem_nang_phat_trien_nguon_nh.sCbcbluQY4.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-45970/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
úi, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn trình độ dân trí thấp, do đó việc vận động khó khăn hơn nhiều so với những vùng đồng bằng hay thành thị.Bên cạnh đó cần có những biện pháp hành chính đối với những Đảng viên, viên chức Nhà nước không thi hành chính sách dân số KHHGĐ như phạt tiền, giảm mức lương hay biện pháp phát triển nhất là buộc thôi việc.
Thứ hai, tăng cường các chính sách bảo hiểm cho người già công tác bảo hiểm cho người già nếu làm tốt sẽ có tác dụng mạnh mẽ tới ý thức của người dân về số con mong muốn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến quy mô gia đình lớn đólà cần có nhiều con để phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, khi chức năng này được xã hội đảm nhiệm và làm tốt thì tất yếu sẽ dẫn đến số con trung bình giảm. Chính sách bảo hiểm cho người già có thể là tăng mức trợ cấp cho những người chấp nhận mô hình gia đình nhỏ tăng thêm 5% lương, với những cặp không có con lương hưu tăng 10% và chăm sóc sức khoẻ lúc ốm đau.
Tiến hành thành lập các trung tâm dưỡng lão, các hội người già, hội những người tình nguyện chăm sóc người già. Việc thành lập này có tác dụng thu hút sự tham gia, đóng góp của các thành viên , đoàn thể trong xã hội vào công tác này. Bản thân những người tình nguyện phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ y tá để có thể xử lý những tình huống đơn giản và họ sẽ hưởng chế độ ưu đãi và sự trợ cấp của Nhà nước hàng tháng. Đặc biệt chính sách bảo hiểm cho người già cần hoạt động mạnh hơn nữa ở khu vực nông thôn, nơi còn duy trì khá phổ biến và nặng nề tư tưởng cần có nhiều con.
Thứ ba, cần có những chính sách phân bố lại dân cư một cách hợp lý. Đi đôi với việc khuyến khích những người đi khai thác vùng kinh tế mới, Nhà nước phải có những chủ trương chính sách đảm bảo không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần cho họ. Đặc biệt cần đầu tư về hệ thống y tế và giáo dục cho các vùng này. Thực hiện việc giao đất giao rừng trên cơ sở đầu tư ban đầu bằng tiền hay cây trồng... hay cho vay với lãi suất thấp. Có như vậy họ mới yên ổn làm ăn tránh trường hợp quay trở lại nơi xuất phát một cách ồ ạt, không có tổ chức.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức quản lý: Qua nhiều năm thực hiện khảo sát thực tế của một số nước trong khu vực, chúng ta phải thấy rằng, đồng thời với việc thực hiện các giải pháp trên, phải coi trọng việc nâng cao năng lực quản lý chương trình, một đảm bảo rất quan trọng cho việc thành công mà nội dung chính là đảm bảo một hệ thống đầy đủ, tổ chức đủ mạnh với một đội ngũ cán bộ được đào tạo và các nhà lãnh đạo có uy tín cao đảm nhận, xây dựng được một hệ thống thông tin tốt để giúp việc nâng cao chất lượng trong công việc xây dựng kế hoạch, xây dựng chính sách phải có một hệ thống chính sách đồng bộ bao quát được các nội dung có liên quan hướng vào việc giảm sinh để đưa mức sinh phát triển hợp lý.
II. Thực trạng nguồn lao động ở nước ta.
1. Đặc điểm thị trường lao động.
Đặc điểm đầu tiên khi nói về thị trường lao động ở nước ta là đông về mặt số lượng nhưng chưa mạnh về mặt chất lượng - Thể hiện ở chỗ số người bước vào tuổi có khả năng lao động ngày một đông. Khi đất nước mới thống nhất (1975) số người trong độ tuổi lao động chỉ có trên 2 triệu người, năm 1980: 25 triệu; 1985: 30 triệu ; 1990: 35 triệu; 1995: 40t riệu và dự tính đến năm 2000 khoảng 45 triệu người. Tỷ trọng nguồn lao động trong dân số ngày càng tăng: 1975: 45%; 1985: 50%; 1995: 54%. Dự tính đến năm 2000: 55 - 56% (GS.PTS Tống Văn Đường - phát triển dân số với việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay- LĐ & XH. Tháng 10 - 1996).
Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì tình trạng thất nghiệp trở nên phổ biến. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm vẫn rất đông ở nông thôn cũng như thành thị (khoảng 6 - 7 triệu lao động dư thừa), phần lớn họ không có khả năng tìm việc ổn định.ở nông thôn, hàng chục triệu nông dân chỉ làm việc, bốn tháng trong một năm, tập trung vào mùa vụ, thời gian còn lại hầu như là nhàn rỗi. Trong khi lao động nông thôn chiếm tới 76% lực lượng lao động cả nước thì thời gian được sử dụng ở nông thôn chỉ ở mức 72,11%. Đặc điểm lao động ở nông thôn là trình độ văn hoá thấp, chủ yếu làm những công việc sử dụng nhiều sức lao động, lao động mang tính chất thủ công là chính, trình độ tay nghề rất thấp... Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự di dân tự do ra các thành phố lớn, các đô thị để kiếm việc hình thành nên những "chợ lao động" gây khó khăn cho việc quản lý của các nhà chức trách. Năm 1996, tỷ lệ lao động nông thôn ra thành thị tìm việc làm trong dân số hoạt động kinh tế là 7,14%. Số lao động này chủ yếu làm các công việc và dịch vụ nặng nhọc như: làm thuê, đạp xích lô, đào đất... Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội ở các thành phố lớn như cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Hiện nay cả nước có khoảng 80 nghìn gái mại dâm, 80 nghìn người nghiện hút và 50 nghìn người sống lang thang bụi đời.
Trong khi tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cao thì ở các khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu chế xuất lại thiếu các kỹ sư và công nhân lành nghề. Đội ngũ quản lý ở tầm vĩ mô và tầm vi mô đông nhưng chưa mạnh, trình độ năng lực quản lý còn thấp kém, khả năng nắm bắt thông tin, tiếp cận với những tri thức tiên tiến của khoa học quản lý trong cơ chế thị trường chưa kịp thời đầy đủ. Không những thế, số lượng cán bộ bị thoái hoá biến chất ngày càng gia tăng, tình trạng một bộ phận cán bộ tham nhũng, vi phạm kỷ cương phép nước có chiều hướng phát triển, nạn quan liêu ăn đút lót, hối lộ, tham ô tài sản của Nhà nước đang trở thành "quốc nạn".
Không chỉ ở nông thôn mà kể cả các khu vực thành thị số lượng lao động chưa có việc làm cũng rất lớn, đặc biệt là các đô thị lớn như Đà Nẵng, Hải Phòng... Theo số liệu điều tra gần đây chiếm khoảng 7 - 8% tổng số lao động thành thị trong đó 80% tập trung ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận là chưa có nghề. Trong số này khoảng 70% có nhu cầu cấp bách cần giải quyết việc làm ngay. Đặc điểm lao động thành thị là có trình độ văn hoá cao hơn nông thôn (phổ biến ở trình độ cấp II). Song thụ động trong việc tìm kiếm việc làm, trông chờ ỷ lại vào gia đình hay Nhà nước, kén chọn nghề (không thích lao động nặng nhọc, phổ thông, thu nhập thấp). Học sinh các trường Đại học, cao đẳng sau khi tốt nghiệp không muốn xa rời thành phố về nông thôn v à đi các tỉnh vùng sâu, vùng xa (theo báo cáo số này lên đến hàng nghìn người. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội có hàng trăm bác sĩ chờ việc, trong khi ở Tây nguyên miền núi Bắc Bộ rất thiếu). Lao động thành thị có hiện tượng tái thất nghiệp (do các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, đòi hỏi lao động mới trẻ khoẻ, có tay nghề cao)... (Nguyễn Khang - về lao động, việc làm ở thành thị thời kỳ 1996 - 2000 - LĐ & XH tháng 2/1996). Nh