Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Bảo tàng Hồ Chí Minh hay còn gọi là Bến Nhà Rồng là một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta. Bến Nhà Rồng được xây dựng từ năm 1864, trước kia là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Tại nơi đây, ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lấy tên là Hồ Chí Minh) đã lên tàu Amiral Latouche Tréville với tên Nguyễn Văn Ba để ra đi tìm đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
Bác Hồ lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người cha của Bác, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cải cách chính trị-xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Người mẹ của Bác-bà Hoàng Thị Loan cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người.
Sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Lúc bấy giờ đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Phong trào Đông Du, cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí nâng cao dân khí của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là việc “cầu xin Pháp rủ lòng thương” Các phong trào Đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Trước bối cảnh đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tự định ra cho mình một hướng đi mới: “phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẻ trở về giúp đồng bào mình.”
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên Văn Ba – làm nghề phụ bếp từ Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là TP.Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi sang Pháp trên con tàu Amiran Latusơ Tơrevin bắt đầu con đường đi tìm chân lý. Trong thời gian làm việc trên tàu, mặc dù phải làm việc hàng ngày từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, nhưng Người vẫn tranh thủ học ngoại ngữ, học thêm kiến thức. Với đôi bàn tay trắng, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp bốn biển, đi qua nhiều nước thuộc địa, tư bản, đế quốc, chứng kiến cuộc sống của con người những nơi anh đi qua, xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Việc ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ là hết sức mới mẻ và xuất phát từ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước của của Người.
Ngày đầu tiên chen chân đến Pháp, anh nhận thấy ở Pháp cũng có những người lao động cùng kiệt như ở Việt Nam và có những người rất tốt và lịch sự hơn những tên Pháp ở Đông Dương, đồng thời anh cũng thấy những tệ nạn xã hội ở Pháp và anh đã hỏi người đi cùng “Tại sao người Pháp không ‘khai hóa’ đồng bào của họ trước khi đi ‘khai hóa’ chúng ta”. Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của Pháp đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Côngô,… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Từ đó, Nguyễn Tất Thành hình thành tư tưởng phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa bị áp bức với nhau để cùng chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi đứng dưới chân tượng Nữ thần tự do tại New York, Người nhận thấy một điều mâu thuẫn là dưới chân tượng nữ thần tự do không hề có tự do, vẫn có những người nô lệ da đen bị áp bức bóc lột tại nước Mỹ. Dừng chân ở Mỹ không lâu, Nguyễn Tất Thành chẳng những không bị choáng ngợp bởi vẻ hào hoa tráng lệ của một nước Mỹ đang trong thời kì phát triển mạnh mà ngược lại, anh đã nhận ra bộ mặt thật của bọn đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo và tinh vi. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.
Năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời Mỹ sang Anh. Thời gian đầu tại Anh rất khó khăn với Nguyễn Tất Thành, anh phải chấp nhận làm đủ mọi công việc nặng nhọc để kiếm sống như cào tuyết, thợ đốt lò. Không lâu sau, Nguyễn Tất Thành được thuê làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại Haymarket. Ban đầu, anh làm công việc rửa bát, đĩa, nồi, chảo,... Khi thấy những người giàu bỏ những thức ăn thừa khá nhiều, anh gói lại những phần ngon còn sót lại chia cho những người nghèo. Việc làm này khiến vua đầu bếp Escophier khá cảm kích nên đã chuyển Nguyễn Tất Thành sang công việc làm bánh. Tại Anh, Nguyễn Tất Thành không chỉ lo làm việc kiếm sống, anh còn hăng hái tham gia những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành nghỉ việc và sang Pháp. Do chưa có giấy tờ hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống khi đó của Nguyễn Tất Thành gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, anh vẫn kiên trì, hăng say học tập, lao động và hoạt động. Anh vẫn thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ tại Pháp như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp. Năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Cũng trong năm 1919, Nguyễn Tất Thành đã khiến cho thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới Việt Nam bằng việc gửi Bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội Nghị Vecxai đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách này được Nguyễn Tất Thành ký tên là Nguyễn Ái Quốc, được dịch ra 2 thứ tiếng và được chính Nguyễn Ái Quốc phân phát cho các trong các cuội hội họp, mittinh. Từ thời điểm này, thực dân Pháp bắt đầu chú ý nhiều hơn tới Nguyễn Ái Quốc. Tuy bản Yêu sách không được đáp ứng, nhưng nó lại có tác động mạnh mẽ người Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời, qua việc bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng “Chủ nghĩa Uynxon chỉ là một trò bịp bợm lớn”, và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Từ yêu cầu đấu tranh đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Một trong số các bài báo do Nguyễn Ái Quốc đăng là “Vấn đề bản xứ” đăng trên báo Nhân Đạo (L’ Humanité) ngày 2/8/1919. Trong bài báo, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam. Với bài báo trên, chúng ta thấy rõ Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực dân Pháp. Người có khát vọng là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa tìm được con đường đúng đắn, vẫn chưa biết đi theo hướng nào.
Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ đang hình thành phong trào cộng sản, nhất là sau khi Cách mạng tháng 10 Nga giành thắng lợi năm 1917. Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chính từ đây chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể. Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức đã chú ý tới bài báo này, Người nói “Luận cương của Lênin làm cho tui rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! tui vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tui nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!’”
Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn đi theo Quốc tế 3, đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương. Cũng tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước nhảy vọt trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tại thời điểm này, sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đồng thời kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương hướng mới.
Từ khi tìm được hướng đi đúng đắn cho con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng và sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn nữa đến các dân tộc thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực. Thời kì từ năm 1920-1930 là thời kì hoạt động sôi nổi của Người trên các lĩnh vực, các đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Ngày 12/12/1921, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội Đảng bộ quận Xen (Seine), nơi Người cư trú và được bầu là đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 25 đến 30/12/1921 tại Mácxây. Đại hội đã bầu Nguyễn Ái Quốc làm phụ tá của Chủ tịch Đại hội. Người khẳng định: “Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa”. Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh với giai cấp tư sản và bọn thực dân, giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với các dân tộc thuộc địa,... Ý kiến này được chấp thuận và Nguyễn Ái Quốc được chỉ định tham gia ban đó.
Tuy nhiên, trong đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, vấn đề thuộc địa vẫn không có trong chương trình nghị sự. Nguyễn Ái Quốc lên tiếng phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Theo đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội đã biểu quyết thông qua “Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa”, nhấn mạnh “Vì hoà bình thế
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Bảo tàng Hồ Chí Minh hay còn gọi là Bến Nhà Rồng là một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta. Bến Nhà Rồng được xây dựng từ năm 1864, trước kia là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Tại nơi đây, ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lấy tên là Hồ Chí Minh) đã lên tàu Amiral Latouche Tréville với tên Nguyễn Văn Ba để ra đi tìm đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
Bác Hồ lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người cha của Bác, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cải cách chính trị-xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Người mẹ của Bác-bà Hoàng Thị Loan cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người.
Sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Lúc bấy giờ đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Phong trào Đông Du, cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí nâng cao dân khí của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là việc “cầu xin Pháp rủ lòng thương” Các phong trào Đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Trước bối cảnh đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tự định ra cho mình một hướng đi mới: “phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẻ trở về giúp đồng bào mình.”
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên Văn Ba – làm nghề phụ bếp từ Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là TP.Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi sang Pháp trên con tàu Amiran Latusơ Tơrevin bắt đầu con đường đi tìm chân lý. Trong thời gian làm việc trên tàu, mặc dù phải làm việc hàng ngày từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, nhưng Người vẫn tranh thủ học ngoại ngữ, học thêm kiến thức. Với đôi bàn tay trắng, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp bốn biển, đi qua nhiều nước thuộc địa, tư bản, đế quốc, chứng kiến cuộc sống của con người những nơi anh đi qua, xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Việc ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ là hết sức mới mẻ và xuất phát từ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước của của Người.
Ngày đầu tiên chen chân đến Pháp, anh nhận thấy ở Pháp cũng có những người lao động cùng kiệt như ở Việt Nam và có những người rất tốt và lịch sự hơn những tên Pháp ở Đông Dương, đồng thời anh cũng thấy những tệ nạn xã hội ở Pháp và anh đã hỏi người đi cùng “Tại sao người Pháp không ‘khai hóa’ đồng bào của họ trước khi đi ‘khai hóa’ chúng ta”. Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của Pháp đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Côngô,… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Từ đó, Nguyễn Tất Thành hình thành tư tưởng phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa bị áp bức với nhau để cùng chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi đứng dưới chân tượng Nữ thần tự do tại New York, Người nhận thấy một điều mâu thuẫn là dưới chân tượng nữ thần tự do không hề có tự do, vẫn có những người nô lệ da đen bị áp bức bóc lột tại nước Mỹ. Dừng chân ở Mỹ không lâu, Nguyễn Tất Thành chẳng những không bị choáng ngợp bởi vẻ hào hoa tráng lệ của một nước Mỹ đang trong thời kì phát triển mạnh mà ngược lại, anh đã nhận ra bộ mặt thật của bọn đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo và tinh vi. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.
Năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời Mỹ sang Anh. Thời gian đầu tại Anh rất khó khăn với Nguyễn Tất Thành, anh phải chấp nhận làm đủ mọi công việc nặng nhọc để kiếm sống như cào tuyết, thợ đốt lò. Không lâu sau, Nguyễn Tất Thành được thuê làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại Haymarket. Ban đầu, anh làm công việc rửa bát, đĩa, nồi, chảo,... Khi thấy những người giàu bỏ những thức ăn thừa khá nhiều, anh gói lại những phần ngon còn sót lại chia cho những người nghèo. Việc làm này khiến vua đầu bếp Escophier khá cảm kích nên đã chuyển Nguyễn Tất Thành sang công việc làm bánh. Tại Anh, Nguyễn Tất Thành không chỉ lo làm việc kiếm sống, anh còn hăng hái tham gia những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành nghỉ việc và sang Pháp. Do chưa có giấy tờ hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống khi đó của Nguyễn Tất Thành gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, anh vẫn kiên trì, hăng say học tập, lao động và hoạt động. Anh vẫn thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ tại Pháp như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp. Năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Cũng trong năm 1919, Nguyễn Tất Thành đã khiến cho thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới Việt Nam bằng việc gửi Bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội Nghị Vecxai đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách này được Nguyễn Tất Thành ký tên là Nguyễn Ái Quốc, được dịch ra 2 thứ tiếng và được chính Nguyễn Ái Quốc phân phát cho các trong các cuội hội họp, mittinh. Từ thời điểm này, thực dân Pháp bắt đầu chú ý nhiều hơn tới Nguyễn Ái Quốc. Tuy bản Yêu sách không được đáp ứng, nhưng nó lại có tác động mạnh mẽ người Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời, qua việc bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng “Chủ nghĩa Uynxon chỉ là một trò bịp bợm lớn”, và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Từ yêu cầu đấu tranh đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Một trong số các bài báo do Nguyễn Ái Quốc đăng là “Vấn đề bản xứ” đăng trên báo Nhân Đạo (L’ Humanité) ngày 2/8/1919. Trong bài báo, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam. Với bài báo trên, chúng ta thấy rõ Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực dân Pháp. Người có khát vọng là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa tìm được con đường đúng đắn, vẫn chưa biết đi theo hướng nào.
Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ đang hình thành phong trào cộng sản, nhất là sau khi Cách mạng tháng 10 Nga giành thắng lợi năm 1917. Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chính từ đây chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể. Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức đã chú ý tới bài báo này, Người nói “Luận cương của Lênin làm cho tui rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! tui vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tui nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!’”
Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn đi theo Quốc tế 3, đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương. Cũng tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước nhảy vọt trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tại thời điểm này, sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đồng thời kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương hướng mới.
Từ khi tìm được hướng đi đúng đắn cho con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng và sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn nữa đến các dân tộc thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực. Thời kì từ năm 1920-1930 là thời kì hoạt động sôi nổi của Người trên các lĩnh vực, các đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Ngày 12/12/1921, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội Đảng bộ quận Xen (Seine), nơi Người cư trú và được bầu là đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 25 đến 30/12/1921 tại Mácxây. Đại hội đã bầu Nguyễn Ái Quốc làm phụ tá của Chủ tịch Đại hội. Người khẳng định: “Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa”. Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh với giai cấp tư sản và bọn thực dân, giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với các dân tộc thuộc địa,... Ý kiến này được chấp thuận và Nguyễn Ái Quốc được chỉ định tham gia ban đó.
Tuy nhiên, trong đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, vấn đề thuộc địa vẫn không có trong chương trình nghị sự. Nguyễn Ái Quốc lên tiếng phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Theo đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội đã biểu quyết thông qua “Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa”, nhấn mạnh “Vì hoà bình thế
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: cảm nhận về cuộc đời của Hồ Chí Minh qua chuyến tham quan tại bảo tàng, cảm nhận về chuyến đi bảo tàng hồ chí minh, bài tiểu luận bến nhà rong, Cảm nhận về thời niên thiếu của Hồ chí Minh trong chuyến đi bảo tàng, cảm nhận bản thân về cuộc đời củahồ chí minh, thực tế bảo tàng hồ chí minh, bài cảm nhận đi thực tế ở bến nhà rồng, cảm nhận sau chuyến đi tham quan bảo tàng lịch sử, cảm nhận của bản thân sau khi tham quan bảo tàng lịch sử quốc gia việt nam, lời kêu gọi đi bảo tàng hồ chí minh ở bến nhà rồng, cảm nhận sau quá trình tham quan nhận thức, tiểu luận cảm nhận của bản thân, cảm nhận của bản thân về chuyến đi bảo tàng lịch sử, bài tiểu luận về khu di tích kim liên,