kokotsk2003
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
MỤC LỤC
NỘI DUNG 1
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh 2
1. Chứng cứ 2
2. Nguồn chứng cứ. 2
3. Phương tiện chứng minh 4
II. Quy định của pháp luật hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh. 5
1. Chứng cứ. 5
2. Nguồn của chứng cứ. 7
3. Phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự 9
III. Một số kiến nghị hoàn thiện 10
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
của Tòa án khi lưu giữ, quy định này chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Tòa án. Bởi vậy việc quy định rõ trách nhiệm là điều cần thiết. Để hạn chế tình trạng chứng cứ bị tiêu hủy hay có thể bị tẩu tán. BLTTDS nên quy định thời gian Tòa án buộc phải áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ khi đương sự có yêu cầu. Bên cạnh đó điều 385 BLTTDS quy định các biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng nhưng chưa quy định cụ thể về việc áp dụng các chế tài, vì thế nên quy định hình thức xử lý cụ thể người đứng đầu cơ quan, tổ chức không chịu cung cấp chứng cứ hay cung cấp tài liệu sai sự thật gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Quy định rõ chế tài sẽ gớp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ chứng cứ.
KẾT LUẬN
Pháp luật về chứng cứ và chứng minh nằm trong mối quan hệ pháp lý giữa luật nội dung và luật tố tụng. Trong lý luận và thực tiễn giải quyết các vụ dân sự, chứng cứ và quá trình chứng minh cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ. Hiện nay, các quy định về “chứng minh và chứng cứ” được quy định thành một chương riêng trong BLTTDS. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng, thực thi các quy định về chứng cứ và chứng minh còn gặp nhiều khó khăn và bất cập, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về lý luận để bổ sung hoàn thiện chế định chứng cứ và chứng minh trong luật TTDS Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1989 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên đã dần lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, quy định đầy đủ và rõ ràng hơn về vấn đề chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
Bài viết dưới đây tìm hiểu về vấn đề: chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
NỘI DUNG
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
1. Chứng cứ
Chứng cứ trong TTDS có thể hiểu là những gì có thật phản ánh sự thật khách quan về vụ việc dân sự và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định. Do vậy, chứng cứ đóng vai trò quan trọng trong TTDS.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự, nó tồn tại trong thế giới vật chất với muôn hình muôn vẻ. Tổng quát lại có hai dạng: Các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án được phản ánh vào ý thức của con người;Các dấu vết vật chất. Tất cả các “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án chính là sự phản ánh các mặt riêng lẻ của sự vật về vụ án được thu thập theo một trình tự, thủ tục do luật định là căn cứ cho việc xác định sự thật vụ án, nhằm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Theo Điều 81 BLTTDS định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hay do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Trên thực tế, thuật ngữ hai thuật ngữ chứng cứ và bằng chứng được sử dụng như nhau nhưng thực chất chúng lại có khái niệm khác nhau. Chứng cứ được dụng là căn cứ để tòa án xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự đúng hay không. Trong khi đó, bằng chứng là cái mà các chủ thể đưa ra dùng để chứng tỏ yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là đúng. Thực ra, bằng chứng là phương tiện để các đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dựa vào để chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối của họ. Tuy vây, tòa án cũng có thể sử dụng những tin tức được phản ánh trong các bằng chứng để giải quyết vụ việc dân sự nếu đã kiểm tra được tính xác thực của nó.
2. Nguồn chứng cứ.
Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hay nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ để từ đó rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Theo quy định tại điều 82 BLTTDS năm 2004 thì nguồn chứng cứ được quy định trong 8 nguồn chính. Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại khoản 9 điều 82 BLTTDS năm 2004 quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không phải là một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ nào đó thì Tòa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều 82 của BLTTDS
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng cứ.
Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng cứ nhưng có những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai đó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Điều 83 BLTTDS đã quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ trong các nguồn chứng cứ. Với quy định này của điều luật chúng ta thấy rằng : đối với loại nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hay do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hay văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì các tài liệu đó mới được coi là có giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
MỤC LỤC
NỘI DUNG 1
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh 2
1. Chứng cứ 2
2. Nguồn chứng cứ. 2
3. Phương tiện chứng minh 4
II. Quy định của pháp luật hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh. 5
1. Chứng cứ. 5
2. Nguồn của chứng cứ. 7
3. Phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự 9
III. Một số kiến nghị hoàn thiện 10
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
của Tòa án khi lưu giữ, quy định này chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Tòa án. Bởi vậy việc quy định rõ trách nhiệm là điều cần thiết. Để hạn chế tình trạng chứng cứ bị tiêu hủy hay có thể bị tẩu tán. BLTTDS nên quy định thời gian Tòa án buộc phải áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ khi đương sự có yêu cầu. Bên cạnh đó điều 385 BLTTDS quy định các biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng nhưng chưa quy định cụ thể về việc áp dụng các chế tài, vì thế nên quy định hình thức xử lý cụ thể người đứng đầu cơ quan, tổ chức không chịu cung cấp chứng cứ hay cung cấp tài liệu sai sự thật gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Quy định rõ chế tài sẽ gớp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ chứng cứ.
KẾT LUẬN
Pháp luật về chứng cứ và chứng minh nằm trong mối quan hệ pháp lý giữa luật nội dung và luật tố tụng. Trong lý luận và thực tiễn giải quyết các vụ dân sự, chứng cứ và quá trình chứng minh cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ. Hiện nay, các quy định về “chứng minh và chứng cứ” được quy định thành một chương riêng trong BLTTDS. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng, thực thi các quy định về chứng cứ và chứng minh còn gặp nhiều khó khăn và bất cập, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về lý luận để bổ sung hoàn thiện chế định chứng cứ và chứng minh trong luật TTDS Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1989 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên đã dần lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, quy định đầy đủ và rõ ràng hơn về vấn đề chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
Bài viết dưới đây tìm hiểu về vấn đề: chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh.
NỘI DUNG
I. Định nghĩa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
1. Chứng cứ
Chứng cứ trong TTDS có thể hiểu là những gì có thật phản ánh sự thật khách quan về vụ việc dân sự và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định. Do vậy, chứng cứ đóng vai trò quan trọng trong TTDS.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự, nó tồn tại trong thế giới vật chất với muôn hình muôn vẻ. Tổng quát lại có hai dạng: Các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án được phản ánh vào ý thức của con người;Các dấu vết vật chất. Tất cả các “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án chính là sự phản ánh các mặt riêng lẻ của sự vật về vụ án được thu thập theo một trình tự, thủ tục do luật định là căn cứ cho việc xác định sự thật vụ án, nhằm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Theo Điều 81 BLTTDS định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hay do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Trên thực tế, thuật ngữ hai thuật ngữ chứng cứ và bằng chứng được sử dụng như nhau nhưng thực chất chúng lại có khái niệm khác nhau. Chứng cứ được dụng là căn cứ để tòa án xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự đúng hay không. Trong khi đó, bằng chứng là cái mà các chủ thể đưa ra dùng để chứng tỏ yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là đúng. Thực ra, bằng chứng là phương tiện để các đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người thay mặt hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dựa vào để chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối của họ. Tuy vây, tòa án cũng có thể sử dụng những tin tức được phản ánh trong các bằng chứng để giải quyết vụ việc dân sự nếu đã kiểm tra được tính xác thực của nó.
2. Nguồn chứng cứ.
Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hay nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ để từ đó rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Theo quy định tại điều 82 BLTTDS năm 2004 thì nguồn chứng cứ được quy định trong 8 nguồn chính. Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại khoản 9 điều 82 BLTTDS năm 2004 quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không phải là một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ nào đó thì Tòa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều 82 của BLTTDS
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng cứ.
Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng cứ nhưng có những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai đó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Điều 83 BLTTDS đã quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ trong các nguồn chứng cứ. Với quy định này của điều luật chúng ta thấy rằng : đối với loại nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hay do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hay văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì các tài liệu đó mới được coi là có giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tiểu luận tố tụng dân sự chứng minh chứng cứ, hoàn thiện pháp luật về nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự, bình luận chứng cứ dân sự, TIỂU LUẬN nguồn của chứng cứ trong tố tụng dân sự, tiểu luận nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự, pháp luật dân sự về nguồn chứng cứ, bình luận quy định nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự, hạn chế trong quy định về nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự
Last edited by a moderator: