Download Tiểu luận Công nghiệp gang thép Việt Nam- Một giai đoạn phát triển và chuyển đổi chính sách mới
Tóm tắt:
Công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân dần mở rộng, những dự án đầu tư vốn nước ngoài với quy mô lớn hơn đã và đang tập trung vào ngành công nghiệp này. Các doanh nghiệp nhà nước đang mất dần đặc quyền đặc lợi và rơi vào tình thế phải tìm ra cách thức tồn tại độc lập với Nhà nước. Giai đoạn phát triển mới này đòi hỏi những tiếp cận mới như tăng cường cạnh tranh, sắp xếp lại cơ chế thu mua kim loại phế liệu song song với bảo vệ môi trường, quản lý quá trình tự do hóa thương mại, đánh giá các dự án vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp.
Từ khóa: Việt Nam, công nghiệp gang thép, dòng nguyên liệu, phân công lao động theo cấp bậc, doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi chính sách, năng lực của chính phủ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo vệ môi trường, hiệp định đối tác kinh tế song phương Nhật Bản - Việt Nam (Japan-Việt Nam EPA), hiệp hội doanh nghiệp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Một giai đoạn phát triển và chuyển đổi chính sách mới
Nozomu Kawabata∗
Tháng 8 -2007
Tham luận số 9
Diễn đàn Phát triển Việt Nam
∗ Nozomu Kawabata hiện là giáo sư kinh tế thuộc trường sau đại học Kinh tế và Quản lý, Đại học Tohoku,
thành phố Sendai, Nhật Bản. Địa chỉ e-mail liên hệ [email protected].
1
Tóm tắt:
Công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vai trò của các
doanh nghiệp tư nhân dần mở rộng, những dự án đầu tư vốn nước ngoài với quy mô lớn hơn đã và
đang tập trung vào ngành công nghiệp này. Các doanh nghiệp nhà nước đang mất dần đặc quyền đặc
lợi và rơi vào tình thế phải tìm ra cách thức tồn tại độc lập với Nhà nước. Giai đoạn phát triển mới
này đòi hỏi những tiếp cận mới như tăng cường cạnh tranh, sắp xếp lại cơ chế thu mua kim loại phế
liệu song song với bảo vệ môi trường, quản lý quá trình tự do hóa thương mại, đánh giá các dự án
vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp.
Từ khóa: Việt Nam, công nghiệp gang thép, dòng nguyên liệu, phân công lao động theo cấp bậc,
doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi chính sách, năng lực của chính phủ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, bảo vệ môi trường, hiệp định đối tác kinh tế song phương Nhật Bản - Việt Nam
(Japan-Việt Nam EPA), hiệp hội doanh nghiệp.
2
Giới thiệu chung
1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ làm sáng rõ thực tế là ngành công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào
một giai đoạn phát triển mới và sự đổi mới trong chính sách để phù hợp cho giai đoạn mới này là rất
cần thiết. Nghiên cứu cũng đề xuất những định hướng trong đổi mới chính sách. Sau phần giới thiệu
chung, các vấn đề của ngành công nghiệp sẽ được đưa ra bàn luận cùng với những đóng góp và hạn
chế của những nghiên cứu trước đây. Sau đó, phần thứ nhất sẽ khái quát cơ cấu kinh doanh và sản
xuất của công nghiệp gang thép Việt Nam. Phần thứ hai miêu tả những đặc trưng của các dự án đầu tư
quy mô lớn trong ngành thép với nguồn đầu tư nước ngoài. Phần thứ ba phân tích những vấn đề
chính sách liên quan đến ngành công nghiệp này. Phần cuối kết luận chung cho toàn bộ nghiên cứu.
2. Chính sách “Mở Cửa”, Sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và sự phát triển của ngành
công nghiệp thép
Việc phát triển ngành công nghiệp thép ở các nước đang phát triển là một công việc không dễ dàng.
Thúc đẩy ngành công nghiệp thép nội địa buộc một quốc gia phải đối mặt với các vấn đề như thị
trường nội địa hạn hẹp, khó khăn về tài chính, cơ sở hạ tầng yếu kém và sự thiếu hụt đội ngũ quản lí,
kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật với những kỹ năng chuyên môn cần thiết.
Hơn nữa, các nước đang phát triển ngày nay buộc phải công nghiệp hóa trong điều kiện hội nhập
với kinh tế thế giới ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế (theo Ohno (2000); Kimura
(2003)). Ví dụ như, bằng việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và kí kết các hiệp định
thương mại tự do (FTA) hay các hiệp định đối tác kinh tế song phương (EPA), càng nhiều quốc gia
phải thực hiện tự do hóa thương mại đối với hành hóa dịch vụ cũng như đầu tư ngay ở giai đoạn đầu
của tiến trình phát triển. Đây chính là những khó khăn cản trở những nước đang phát triển này áp
dụng chính sách truyền thống bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ, chính sách giúp các ngành
công nghiệp trong nước còn non trẻ có thêm thời gian để phát triển và lớn mạnh hơn. Các ngành công
nghiệp Việt Nam phần lớn đều đang phải đối mặt với khó khăn này (theo Ishikawa, 2006, chương 6).
Tương lai của ngành công nghiệp thép nói riêng cũng không có nhiều sáng sủa dưới áp lực của tự do
hóa và hội nhập quốc tế.
Thực tế, từ sau chính sách Đổi mới trong vòng 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã và đang mở rộng
quan hệ với thế giới. Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế mậu dịch khu vực theo khung AFTA (khối
mậu dịch tự do ASEAN) từ năm 2006 và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Với
nghiên cứu về tương lai của ngành công nghiệp thép Việt Nam, sự tự do hóa kinh tế ở Việt Nam được
3
xem như một cơ sở nghiên cứu cần thiết.
Thêm vào đó, Việt Nam đang hướng tới đổi mới nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy sự đổi mới trong các doanh nghiệp nhà nước cùng với những thay đổi
về chính sách công nghiệp cho các doanh nghiệp này cũng sẽ là kim chỉ nam hành động cho ngành
công nghiệp thép cũng như cho toàn bộ nền kinh tế. Sự đổi mới này sẽ theo hướng như thế nào trong
trường hợp của ngành công nghiệp thép cũng là một nội dung được đề cập trong nghiên cứu này.
3. Đóng góp và hạn chế của những nghiên cứu trước đây
Gần đây công nghiệp thép của Việt Nam mới được nghiên cứu trên lĩnh vực kinh tế ở cả những
nghiên cứu tiếng Anh cũng như tiếng Nhật. Năm 2001, Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã công bố những báo cáo trong dự án “Nghiên cứu về chính sách
phát triển kinh tế cho chuyển đổi kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, hay còn gọi tắt là “Dự án Ishikawa”, trong đó nêu lên những phân tích tích cực nhất
cho đến thời điểm đó (trích Fukui, Aiba và Hashimoto (2001); Ohno (2001) và Kawabata (2001)).
Sau đó là hợp tác nghiên cứu giữa JICA và Trường đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) (trích Hoàng
Đức Thân và các cộng sự (chủ biên 2002, 2003) và Kawabata (2003)).
Những nghiên cứu này chỉ ra những giá trị nhất định của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và sự cần thiết phải nhập khẩu công nghệ của nước ngoài. Tuy nhiên, những nghiên cứu
trên cũng nhận định rằng tổng công ty Thép Việt Nam (VSC), một tổng công ty của Nhà nước, sẽ có
vai trò chủ lực trong sự phát triển của công nghiệp này.1 Con đường đến sự tự do hóa được vạch ra
khá rõ ràng nhưng những nghiên cứu này đều nhấn mạnh đến sự cần thiết của chính sách bảo hộ theo
từng giai đoạn nhất định nhằm khuyến khích cải cách công nghiệp.
Sau này, căn cứ trên thực tế về sự chậm chễ của những dự án doanh nghiệp nhà nước, sự đổi mới
trong khối doanh nghiệp tư nhân và sự gia tăng tự do hóa thương mại, Kawabata (2005) cho rằng các
doanh nghiệp nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn phát triển khởi đầu, nhưng vai trò
đó ở những giai đoạn kế tiếp sẽ thuộc về doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Hơn nữa,
với nhóm các sản phẩm thép cây, sự cần thiết trong cạnh tranh công bằng được nhấn mạnh; với nhóm
các sản phẩm thép tấm, đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố chính được nêu ra.2
1 Tổng công ty thép Việt Nam-VSC được thành lập năm 1994 trong tổng số 18 tổng công ty do Nhà nước sở hữu theo
Quyết định 91 của Chủ tịch nước. Tổng công ty này trực thuộc sự quản lý của Thủ tướng chính phủ.
2 Ishikawa (2006) chỉ ra rằng s...
Download Tiểu luận Công nghiệp gang thép Việt Nam- Một giai đoạn phát triển và chuyển đổi chính sách mới miễn phí
Tóm tắt:
Công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân dần mở rộng, những dự án đầu tư vốn nước ngoài với quy mô lớn hơn đã và đang tập trung vào ngành công nghiệp này. Các doanh nghiệp nhà nước đang mất dần đặc quyền đặc lợi và rơi vào tình thế phải tìm ra cách thức tồn tại độc lập với Nhà nước. Giai đoạn phát triển mới này đòi hỏi những tiếp cận mới như tăng cường cạnh tranh, sắp xếp lại cơ chế thu mua kim loại phế liệu song song với bảo vệ môi trường, quản lý quá trình tự do hóa thương mại, đánh giá các dự án vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp.
Từ khóa: Việt Nam, công nghiệp gang thép, dòng nguyên liệu, phân công lao động theo cấp bậc, doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi chính sách, năng lực của chính phủ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo vệ môi trường, hiệp định đối tác kinh tế song phương Nhật Bản - Việt Nam (Japan-Việt Nam EPA), hiệp hội doanh nghiệp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
Công nghiệp gang thép Việt Nam:Một giai đoạn phát triển và chuyển đổi chính sách mới
Nozomu Kawabata∗
Tháng 8 -2007
Tham luận số 9
Diễn đàn Phát triển Việt Nam
∗ Nozomu Kawabata hiện là giáo sư kinh tế thuộc trường sau đại học Kinh tế và Quản lý, Đại học Tohoku,
thành phố Sendai, Nhật Bản. Địa chỉ e-mail liên hệ [email protected].
1
Tóm tắt:
Công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vai trò của các
doanh nghiệp tư nhân dần mở rộng, những dự án đầu tư vốn nước ngoài với quy mô lớn hơn đã và
đang tập trung vào ngành công nghiệp này. Các doanh nghiệp nhà nước đang mất dần đặc quyền đặc
lợi và rơi vào tình thế phải tìm ra cách thức tồn tại độc lập với Nhà nước. Giai đoạn phát triển mới
này đòi hỏi những tiếp cận mới như tăng cường cạnh tranh, sắp xếp lại cơ chế thu mua kim loại phế
liệu song song với bảo vệ môi trường, quản lý quá trình tự do hóa thương mại, đánh giá các dự án
vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp.
Từ khóa: Việt Nam, công nghiệp gang thép, dòng nguyên liệu, phân công lao động theo cấp bậc,
doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi chính sách, năng lực của chính phủ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, bảo vệ môi trường, hiệp định đối tác kinh tế song phương Nhật Bản - Việt Nam
(Japan-Việt Nam EPA), hiệp hội doanh nghiệp.
2
Giới thiệu chung
1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ làm sáng rõ thực tế là ngành công nghiệp gang thép Việt Nam đang bước vào
một giai đoạn phát triển mới và sự đổi mới trong chính sách để phù hợp cho giai đoạn mới này là rất
cần thiết. Nghiên cứu cũng đề xuất những định hướng trong đổi mới chính sách. Sau phần giới thiệu
chung, các vấn đề của ngành công nghiệp sẽ được đưa ra bàn luận cùng với những đóng góp và hạn
chế của những nghiên cứu trước đây. Sau đó, phần thứ nhất sẽ khái quát cơ cấu kinh doanh và sản
xuất của công nghiệp gang thép Việt Nam. Phần thứ hai miêu tả những đặc trưng của các dự án đầu tư
quy mô lớn trong ngành thép với nguồn đầu tư nước ngoài. Phần thứ ba phân tích những vấn đề
chính sách liên quan đến ngành công nghiệp này. Phần cuối kết luận chung cho toàn bộ nghiên cứu.
2. Chính sách “Mở Cửa”, Sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và sự phát triển của ngành
công nghiệp thép
Việc phát triển ngành công nghiệp thép ở các nước đang phát triển là một công việc không dễ dàng.
Thúc đẩy ngành công nghiệp thép nội địa buộc một quốc gia phải đối mặt với các vấn đề như thị
trường nội địa hạn hẹp, khó khăn về tài chính, cơ sở hạ tầng yếu kém và sự thiếu hụt đội ngũ quản lí,
kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật với những kỹ năng chuyên môn cần thiết.
Hơn nữa, các nước đang phát triển ngày nay buộc phải công nghiệp hóa trong điều kiện hội nhập
với kinh tế thế giới ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế (theo Ohno (2000); Kimura
(2003)). Ví dụ như, bằng việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và kí kết các hiệp định
thương mại tự do (FTA) hay các hiệp định đối tác kinh tế song phương (EPA), càng nhiều quốc gia
phải thực hiện tự do hóa thương mại đối với hành hóa dịch vụ cũng như đầu tư ngay ở giai đoạn đầu
của tiến trình phát triển. Đây chính là những khó khăn cản trở những nước đang phát triển này áp
dụng chính sách truyền thống bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ, chính sách giúp các ngành
công nghiệp trong nước còn non trẻ có thêm thời gian để phát triển và lớn mạnh hơn. Các ngành công
nghiệp Việt Nam phần lớn đều đang phải đối mặt với khó khăn này (theo Ishikawa, 2006, chương 6).
Tương lai của ngành công nghiệp thép nói riêng cũng không có nhiều sáng sủa dưới áp lực của tự do
hóa và hội nhập quốc tế.
Thực tế, từ sau chính sách Đổi mới trong vòng 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã và đang mở rộng
quan hệ với thế giới. Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế mậu dịch khu vực theo khung AFTA (khối
mậu dịch tự do ASEAN) từ năm 2006 và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Với
nghiên cứu về tương lai của ngành công nghiệp thép Việt Nam, sự tự do hóa kinh tế ở Việt Nam được
3
xem như một cơ sở nghiên cứu cần thiết.
Thêm vào đó, Việt Nam đang hướng tới đổi mới nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy sự đổi mới trong các doanh nghiệp nhà nước cùng với những thay đổi
về chính sách công nghiệp cho các doanh nghiệp này cũng sẽ là kim chỉ nam hành động cho ngành
công nghiệp thép cũng như cho toàn bộ nền kinh tế. Sự đổi mới này sẽ theo hướng như thế nào trong
trường hợp của ngành công nghiệp thép cũng là một nội dung được đề cập trong nghiên cứu này.
3. Đóng góp và hạn chế của những nghiên cứu trước đây
Gần đây công nghiệp thép của Việt Nam mới được nghiên cứu trên lĩnh vực kinh tế ở cả những
nghiên cứu tiếng Anh cũng như tiếng Nhật. Năm 2001, Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã công bố những báo cáo trong dự án “Nghiên cứu về chính sách
phát triển kinh tế cho chuyển đổi kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, hay còn gọi tắt là “Dự án Ishikawa”, trong đó nêu lên những phân tích tích cực nhất
cho đến thời điểm đó (trích Fukui, Aiba và Hashimoto (2001); Ohno (2001) và Kawabata (2001)).
Sau đó là hợp tác nghiên cứu giữa JICA và Trường đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) (trích Hoàng
Đức Thân và các cộng sự (chủ biên 2002, 2003) và Kawabata (2003)).
Những nghiên cứu này chỉ ra những giá trị nhất định của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và sự cần thiết phải nhập khẩu công nghệ của nước ngoài. Tuy nhiên, những nghiên cứu
trên cũng nhận định rằng tổng công ty Thép Việt Nam (VSC), một tổng công ty của Nhà nước, sẽ có
vai trò chủ lực trong sự phát triển của công nghiệp này.1 Con đường đến sự tự do hóa được vạch ra
khá rõ ràng nhưng những nghiên cứu này đều nhấn mạnh đến sự cần thiết của chính sách bảo hộ theo
từng giai đoạn nhất định nhằm khuyến khích cải cách công nghiệp.
Sau này, căn cứ trên thực tế về sự chậm chễ của những dự án doanh nghiệp nhà nước, sự đổi mới
trong khối doanh nghiệp tư nhân và sự gia tăng tự do hóa thương mại, Kawabata (2005) cho rằng các
doanh nghiệp nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn phát triển khởi đầu, nhưng vai trò
đó ở những giai đoạn kế tiếp sẽ thuộc về doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Hơn nữa,
với nhóm các sản phẩm thép cây, sự cần thiết trong cạnh tranh công bằng được nhấn mạnh; với nhóm
các sản phẩm thép tấm, đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố chính được nêu ra.2
1 Tổng công ty thép Việt Nam-VSC được thành lập năm 1994 trong tổng số 18 tổng công ty do Nhà nước sở hữu theo
Quyết định 91 của Chủ tịch nước. Tổng công ty này trực thuộc sự quản lý của Thủ tướng chính phủ.
2 Ishikawa (2006) chỉ ra rằng s...