landang0810

New Member

Download Tiểu luận Cuộc đối thoại giữa môn đồ nho giáo và tác giả về giáo dục miễn phí





Khổng tử là nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại có vai trò to lớn trong lịch sử giáo dục của thế giới. Ông đã để lại cho nhân loại những lời dạy bảo quý báu và những tư tưởng triết lý sâu sắc, mà ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể với nhân tố con người là trung tâm thì người ta lại càng phát hiện ở đó chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ luôn còn giá trị trong sự nghiệp giáo dục.
Trải qua hơn 4000 năm, nhưng sức lan tỏa và chọn lọc những tư tưởng triết học Nho giáo đang được kế thừa một cách hiệu quả. Ngày nay, không còn cái gọi là “môn đồ” của Nho giáo, bởi ở Việt Nam – Nho giáo không tồn tại như một tôn giáo hiện hữu mà nó chỉ tồn tại trong ý niệm của những người trí thức. Ý niệm đó được đúc kết và chọn lọc từ những tư tưởng bất hủ của Nho giáo và thông qua quá trình giáo dục đã dần dần trở thành quan niệm.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM
&œ
Đề tài tiểu luận :
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA MÔN ĐỒ NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ
VỀ GIÁO DỤC
Học viên : Châu Đình Linh
Lớp : Cao học 13B2
Đơn vị công tác: Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
TP.HCM, tháng 12 năm 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, nền văn minh này đã trải qua hơn 4000 năm phát triển liên tục với nhiều phát minh, phát kiến vĩ đại trong mọi lĩnh vực – nhất là trong quan niện Triết học gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Các quan niệm Triết học khác nhau đó có mối liên hệ điều chỉnh mọi hoạt động của chính con người trong xã hội, và từ đó tùy vào triết lý riêng mà hình thành nhiều học thuyết gắn liền với giáo phái tôn giáo khác nhau.
Trong số học thuyết này phải kể đến trước hết là Triết học Nho giáo. Nho – theo hán tự, do chữ Nhơn và chữ Nhu ghép lại. Nhơn là người, Nhu là cần dùng. Vậy, Nho là hạng người luôn luôn được cần dùng để giúp ích cho nhơn quần xã hội biết cách ăn ở sao cho hợp lòng người là lẽ Trời. Ngoài ra, chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng gọi đến thì đem tài ra giúp đời.
Sách Pháp Ngôn có câu :” Thông Thiên định Địa viết Nho”. Nghĩa là : Người biết rõ Thiên văn, Địa lý, thì mới gọi là Nho. “Phàm những người Nho học thì chuyên về mặt áp dụng thực tế, chớ không chú trọng về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ Phật giáo hay Lão giáo, chỉ biết xuất thế, lo tu thân độc thiên kỳ nhân” Trích lời bàn luận của tu sĩ đạo Cao Đài về Nho giáo
Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa :”Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là : Trời đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu : một là, về tín ngưỡng – luôn luôn tin rằng Trời và người tương quan lẫn nhau; hai là, về thực hành - lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng; về trí thức - lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn giáo rất cao minh của nhân loại. Sự cao minh đó bắt nguồn từ triết lý Triết học và sự giáo dục liên tục của giáo phái này. Thật không ngoa khi nói rằng, Nho giáo coi trọng sự học của mỗi bản thân, sự học phải được thực nghiệm, sự học để đem tài giúp sức, sự học để sống hợp lẽ Trời Đất và hợp lòng Người. “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo” là một lẽ thường tình trong quá trình giáo dục của Nho giáo.
Tiểu luận này được thực hiện nhằm để làm rõ tường tận bản chất của giáo dục trong triết lý Nho học, cũng như phác thảo tính thời đại của tư tưởng Nho giáo trong sự nghiệp giáo dục hiện đại.
Nội dung của tiểu luận gồm 3 phần :
Phần 1 : Khái quát hiểu biết về Nho giáo và những tư tưởng của Nho giáo trong giáo dục.
Phần 2 : Cuộc đối thoại giữa môn đệ Nho giáo và tác giả về giáo dục.
Phần 3 : Kết luận.
PHẦN 1
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hay đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hay như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). cần hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Tam Cương: ba mối quan hệ quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng).
1. Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tui trung thành một dạ.
2. Cha con:Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuổi dạy con cái,con phải hiếu đễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già
3. Vợ chồng: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ;vợ chung thủy tuyệt đối với chồng
Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
1. Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ Đức: bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
1. Công: khéo léo trong việc làm.
2. Dung: hòa nhã trong sắc diện.
3. Ngôn: mềm mại trong lời nói.
4. Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt Đức. Quân tử phải đạt được b...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top