Birke

New Member
Download Tiểu luận Điều kiện, các nguyên tắc trong việc bồi thường thiệt hại, cách xác định thiệt hại

Download miễn phí Tiểu luận Điều kiện, các nguyên tắc trong việc bồi thường thiệt hại, cách xác định thiệt hại





MỤC LỤC
Tiêu đề Trang
A. Đặt vấn đề 1
B. Giải quyết vấn đề 2
I. Khái niệm
1. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới
2. Người điều khiển phương tiện giao thông vận tại cơ giới
3. Bồi thường thiệt hại do phương tiện .
II. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
1. Có thiệt hại xảy ra
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
3. Có lỗi của người gây thiệt hại
4. Co mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
III. Nguyên tắc bồi thường và xác định mức bổi thường.
1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
2. Xác định mức độ thiệt hại
IV. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp bồi thường
1. Chủ sở hữu phương tiện
2. Người chiếm hữu, sử dụng phương tiện
3. Cơ quan bảo hiểm
V. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hành vi gây thiệt hại có thể là việc người điều khiển phương tiện không tuân thủ các quy định về bảo quản phương tiện vận tải dẫn đến việc phương tiện bị chiếm hữu một cách bất hợp pháp thì chủ sở hữu vẫn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đôi khi, chủ sở hữu phương tiện, người điều khiển phương tiện không có hành vi trái pháp luật nhưng vẫn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nguyên nhân của việc này là các phương tiện giao thông vận tải cơ giới tự thân nó là nguồn nguy hiểm cao độ nên khi chủ sở hữu quyết định đăng ký quyền sở hữu nghĩa là họ đã chấp nhận rủi ro có thể xảy đến với phương tiện của mình. Tất nhiên, khi họ đã chấp nhận điều đó đồng nghĩa với việc họ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi họ không có hành vi gây thiệt hại.
3. Có lỗi của người gây thiệt hại.
Nguyên tắc trong việc áp dụng luật dân sự cũng như luật hình sự là một người chỉ bị áp dụng chế tài khi họ có lỗi đối với việc gây ra thiệt hại, và lỗi của họ đến đâu thì áp dụng chế tài đến đó. Do vậy, người điều khiển phương tiện chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp họ có lỗi trong việc gây ra thiệt hại (trừ trường hợp thiệt hại xảy ra được xác định là do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra). Theo quy định của điều 604 thì lỗi của người điều khiển phương tiện nói riêng, người gây thiệt hại nói riêng có thể là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn, hay không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hay có thể thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hay có thể ngăn chặn được.
Xung quanh việc xác định hình thức lỗi cố ý của người điều khiển phương tiện giao thông vận tải cơ giới còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng việc gây thiệt hại với lỗi cố ý của người điều khiển phương tiện thì sẽ không áp dụng trách nhiệm bồi thiệt hại do nguời điểu khiển phương tiện giao thông vận tải gây ra, việc áp dụng trách nhiệm dân sự nêu trên chỉ áp dụng khi người điều khiển phương tiện có lỗi vô ý, còn khi đã có lỗi cố ý thì phải áp dụng trường hợp bồi thường do hành vi của con người gây ra. Em không đồng ý với quan điểm nêu trên, em cho rằng người điều khiển phương tiện giao thông vận tải cơ giới vẫn có thể có lỗi cố ý được. Thứ nhất, người điều khiển phương tiện biết việc thực hiện hành vi của mình là có khả năng gây thiệt hại nhưng vẫn thực hiện, khi thiệt hại xảy ra thì được coi là người này đã có lỗi cố ý với hành vi và vô ý đối với hậu quả. VD: Một người vượt đèn đỏ biết được hành vi của mình có thể gây thiệt hại nhưng không mong muốn và tin rằng hậu quả sẽ không xảy ra, tuy nhiên hành vi đó đã gây thiệt hại cho người đi đường khi họ đi đúng tín hiệu giao thông. Thứ hai, người điều khiển phương tiện cố ý với cả hành vi và hậu quả thiệt hại khi họ cho rằng họ được phép gây thiệt hại trong trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại. VD: A đang lái xe ô tô thì bị một đám thanh niên đuổi đánh, A đã nhằm thẳng một người đang dùng vũ khí đập xe mình và đâm thẳng vào người đó. Nếu như hành vi của A chỉ dừng lại ở đó thì được coi là phòng vệ chính đáng và không phải bồi thường, nhưng A lo ngại người này sẽ đứng dậy được và tiếp tục đập xe lên A đã lùi xe lại cán gẫy chân người này. Trường hợp này A đã gây thiệt hại so vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng và phải bồi thường thiệt hại.
Tuy vậy, ta cần đặc biệt chú ý tới trường hợp gây thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, lúc này chủ sở hữu, người chiếm hữu phải bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp họ không có lỗi. BLDS coi đây là một loại “trách nhiệm dân sự nâng cao” đối với chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là thiệt hại do tự thân của phương tiện khi vận hành gây ra. Đây là điểm khác biệt của hai trường hợp bồi thương thiệt hại do phương tiện và bồi thường thiệt hại do người điều khiển phương tiện gây ra. VD: Chị Hoa gửi xe vào trong bãi đậu xe của anh Hoàng. Khoảng 15 phút sau, chiếc xe bất chợt phát nổ gây thiệt hại cho những chiếc xe xung quanh. Trong trường hợp này, người chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chứ không phải người đang chiếm hữu phương tiện.
4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra trong các vụ tai nạn giao thông là kết quả của hành vi trái pháp luật, hay nói cách khác, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại điều 604: “Người nào… xâm phạm …mà gây thiệt hại” thì phải bồi thường. Ở đây ta thấy hành vi gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó.
Mối quan hệ nhân quả thể hiện trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương tự như mối quan hệ của cặp phạm trù nhân quả. Nghĩa là hành vi gây ra thiệt hại do người điều khiển phương tiện phải diễn ra trước về mặt thời gian so với thiệt hại thực tế xảy ra. VD: A lái xe đâm vào một xác chết (xác của một người bị một nhóm nguời giết rổi vứt ra đường) dẫn tới nát phần đùi bên trái của xác chết, thì việc đâm phải xác chết này không được coi là xâm phậm đến tính mạng, sức khoẻ của người chết được. Bên cạnh đó, hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu dẫn đến hậu quả thiệt hại. VD: An là xe ôm, An chở một lúc 2 người đến trường Đại học Luật Hà Nội. Đang ngồi trên xe thì B nhảy xuống xe để trốn tiền xe ôm khi xe đang chạy dẫn đến tử vong do va đầu vào gạch ven đường. Ở đây ta không thể cho rằng việc An chở quá số người quy định là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của B được.
III. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp gây thiệt hại.
Người điều khiển phương tiện giao thông vận tải gây thiệt hại có thể là chủ sở hữu phương tiện, người chiếm hữu phương tiện hợp pháp hay bất hợp pháp. Thông qua mối quan hệ giữa các chủ thể ta có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về một chủ thể, hay các chủ thể liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, do các phương tiện giao thông vận tải cơ giới phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc nên xuất hiện một chủ thể nữa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan bảo hiểm.
1. Chủ sở hữu phương tiện.
Chủ sở hữu phương tiện cơ giới có thể là cá nhân hay tổ chức. Chủ sở hữu phương tiện đuợc pháp luật công nhận quyền sở hữu của mình đối với phương tiện vận tải cơ giới, bởi vậy họ c...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top