Seamus

New Member
Download Tiểu luận Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Download Tiểu luận Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước Việt Nam miễn phí





Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch.
Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các GTCG được giao dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán.
Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001 và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu (T+0). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD.
Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên trong thời gian bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2 phiên/tuần năm 2002. Từ tháng 11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong những dịp giáp Tết, NHNN đã thực hiện giao dịch hàng ngày và tổ chức thêm các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2 phiên/ngày), giúp các TCTD đáp ứng kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống.
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
5.3. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
5.4. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ.
5.5. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng thường là ngắn hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ OMO vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Nó đã mở ra một kênh cung ứng và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD cho NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình. Công cụ OMO liên tục được NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của NHNN.
1. Doanh số trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở
Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định OMO sẽ là một công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT của NHNN. Để đạt được mục đích đó, NHNN đã tập trung thực hiện việc điều hoà lưu thông tiền tệ thông qua công cụ này. Điều này thể hiện ở doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm. Những năm gần đây, tốc độ này đạt trên 200%.
Bảng 1. Tổng doanh số trúng thầu OMO qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Năm thực hiện
Số phiên thực hiện
Khối lượng trúng thầu theo các cách giao dịch
Mua kỳ hạn
Mua hẳn
Bán kỳ hạn
Bán hẳn
Tổng cộng
2000
17
873,50
480,00
550,00
1.903,50
2001
48
3.253,81
60,00
50,00
570,00
3.933,81
2002
85
7.245,53
1.900,00
9.145,53
2003
107
9.844,15
11.340,00
21.184,15
2004
123
60.985,91
950,00
61.935,91
2005
159
100.679,15
700,00
1.100,00
102.479,15
10t/2006
133
26.332,77
200,00
77.102,00
103.634,77
Tổng cộng
672
209.214,82
540,00
950,00
93.512,00
304.216,82
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng và mà còn bán GTCG để hút tiền nhàn rỗi khi thị trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Doanh số trúng thầu OMO tăng mạnh qua các năm, trung bình tăng 1,9573 lần/năm, qua đó tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như các điều kiện tiền tệ.
Từ năm 2002-2004, doanh số trúng thầu tăng trưởng hàng năm trên 100% và năm 2004 bằng 2,924 lần năm 2003 và 15,74 lần năm 2001. Doanh số trúng thầu tăng nhanh bởi các phiên OMO đã được tổ chức thường xuyên hơn, và doanh số giao dịch từng phiên tăng lên. Năm 2005, doanh số trúng thầu bằng 165,5% so với năm 2004.
Doanh số mua vào qua OMO tăng nhanh qua các năm từ khi khai trương đến nay và nhìn chung tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng doanh số giao dịch OMO. Đặc biệt doanh số mua vào năm 2004 tăng đột biến, bằng 6,2 lần so với năm 2003. Doanh số mua vào năm 2005 bằng 165,1% so với doanh số mua vào năm 2004. Điều này chứng tỏ sự thay đổi của NHNN trong điều hành CSTT và diễn biến thị trường thường xuyên thiếu vốn khả dụng. Bên cạnh đó, tỷ trọng doanh số mua vào tăng từ 71,1% năm 2000 lên đến 98,2% vào năm 2005. Chỉ có năm 2003, tỷ trọng này giảm chỉ còn 46,5%.
Doanh số trúng thầu bình quân của từng phiên cũng tăng tăng lên qua các năm. Năm 2000 mới đạt 112 tỷ đồng thì năm 2005 đã đạt 649 tỷ đồng, bằng 5,8 lần năm 2000. Bên cạnh đó, doanh số trúng thầu cao nhất trong một phiên cũng tăng lên theo các năm. Năm 2000, doanh số trúng thầu tối đa trong một phiên là 250 tỷ thì đến năm 2005 là 3.939 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng.
2. Tần suất và cách giao dịch trên thị trường mở
2.1. Tần suất giao dịch
Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức với tần suất 10 ngày/phiên. Ngày giao dịch OMO được tính theo ngày làm việc. Từ phiên thứ 14 vào ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ Tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ 2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong năm 2005, NHNN đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5%so với năm 2004. Mặc dù hiện nay đã giao dịch với tần suất 3 phiên/tuần nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giao dịch vốn của các ngân hàng.
Bảng 2. Số lượng các phiên giao dịch OMO
Năm
Số phiên
Số phiên mua
Số phiên bán
Tần suất giao dịch
Mua hẳn
Mua có kỳ hạn
Bán hẳn
Bán có kỳ hạn
2000*
17
4
10
3
0
10 ngày/phiên
2001
48
3
39
5
1
1 tuần/phiên
2002
85
1
58
26
0
1 tuần/2 phiên
2003
107
0
52
55
0
1 tuần/2 phiên
2004
123
0
109
0
14
1 tuần/3 phiên
2005
158
0
150
6
2
1 tuần/3 phiên
Tổng số
538
8
418
95
17
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (*) từ 12/7 đến 31/12/2000
NHNN chủ yếu thực hiện cá...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top