haviethoabinh

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

1. Tình hình giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1.1 Mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới… Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại học phát triển, số lượng các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát triển đủ để đảm bảo được chất lượng đào tạo của các cơ sở này.
Số lượng sinh viên đại học tăng đột biến lên 5,55 lần trong thập niên 1990-2000, bình quân 18,7% mỗi năm với hậu quả chất lượng giảm sút trầm trọng. Theo dự thảo chiến lược giáo dục thì số sinh viên tăng 1,75 lần trong 8 năm từ 2001-2008, bình quân 7.25% mỗi năm, trong khi đó tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân tăng 1,6 lần, và với tốc độ này thì có thể năng tỷ lệ sinh viên trên dân số lên 4,5% vào năm 2020.
Tỷ lệ sinh viên trong thanh niên độ tuổi học đại học hiện nay khoảng 15% mà dự thảo chiến lược giáo dục đặt mục tiêu tăng thành 40% năm 2020 là không khả thi. Mặt khác tỷ lệ sinh viên ngoài công lập hiên nay là 11,8% mà dự thảo chiến lược giáo dục đặt mục tiêu tăng thành 30% – 40% năm 2020 lại càng không khả thi hơn, nhất là khi nhiều trường ngoài công lập được mở ào ạt trong thời gian vừa qua chưa đủ các điều kiện để bảo đảm chất lượng đào tạo.
Dự thảo chất lượng giáo dục cũng nêu mục tiêu mới về chất lượng đào tạo: “Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp…
1.2 Tình hình giáo dục
Nền kinh tế Việt Nam đang trải qua những thử thách đầy gay go. Ai cũng nhận thức được rằng, nguyên nhân cơ bản là do trình độ quản lý yếu kém và sự thiếu thốn nghiêm trọng nguồn nhân lực có trình độ ở mọi tế bào của nền kinh tế. So sánh với các nước trong khu vực, một điều rõ ràng là chúng ta đã không có sự chuẩn bị về vốn người cho sự phát triển. Trách nhiệm đó, một phần rất lớn là thuộc về giáo dục đại học. Đặc biệt là sự xuống cấp về chuẩn mực đào tạo.
Tại một số trường đại học trên địa bàn TP HCM, nổi lên trào lưu làm giảm nhẹ dần những nguyên tắc sư phạm đã có từ lâu đời ở mọi quốc gia. Cụ thể là yêu cầu thi giữa kỳ bị bỏ hẳn hay buông lỏng, tùy giảng viên tự tổ chức; và việc lập hội đồng bảo vệ khóa luận tốt nghiệp cũng được làm đơn giản hóa, bằng cách chỉ giao cho hai giảng viên chấm khóa luận. Những sửa đổi “nhỏ” này ít được ai quan tâm. Vấn đề không phải là không ai nhận thức được việc làm như vậy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới kỷ luật học tập và chất lượng đào tạo. Nhưng với cách tổ chức giảng dạy hiện nay, dường như đó là một thực tế khó tránh khỏi.
Một điều ai cũng biết là số lượng sinh viên ở một số trường hiện nay quá đông, có lúc tới 500 sinh viên trên đầu một giảng viên. Và việc phải dạy nhiều giờ để kiếm thu nhập bây giờ đã trở thành một “chuẩn mực” trong giáo dục đại học. Nhiều giảng viên phải dạy tới 30 giờ một tuần, khiến cho họ luôn ở trong tình trạng bị quá tải. Hiếm có giảng viên nào còn đủ sức lực và tâm huyết để dẫn dắt, kích thích óc sáng tạo của học sinh. Giờ học trở nên một sự lặp lại nhàm chán, thiếu hơi thở của thực tiễn. Khi đó, việc ra bài tập và làm bài kiểm tra, trở nên ít có ý nghĩa bởi chính tính giáo điều, khô khan của nội dung dạy. Khi mà số lượng bài tập và bài thi phải chấm lên tới con số hàng trăm, thậm chí hàng nghìn, thì người có trách nhiệm nhất cũng phải đứng nhìn.
Trước thực trạng đó, nhiều giảng viên chỉ giao lấy lệ một hay hai bài tập trong cả một khóa học. Đề bài tập, bài kiểm tra dường như không thay đổi qua nhiều năm. Về phía mình, sinh viên chỉ việc mua đáp án bài tập và bài thi với giá 5 ngàn đồng, thay vì bỏ công ra tu luyện. Và cứ theo tập tục đó, đến khi làm khóa luận tốt nghiệp, nhiều sinh viên chỉ việc chọn một trong những đề tài có sẵn, với nội dung rất ít thay đổi qua các năm, ngoại trừ tiêu đề, một vài mô tả dữ liệu, và bảng biểu.
Với cách dạy và học mang tính dập khuôn như vậy, thì việc rèn luyện kỹ năng tư duy và óc sáng tạo không còn là trọng tâm ở nhiều trường Đại học nữa. Việc bỏ thi giữa kỳ, hay bỏ tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nhiệp, mà đã quá lâu chỉ còn mang tính hình thức, trở thành một thực tế hợp lý. Chỉ có điều, chất lượng “đào tạo” mặc sức bị buông trôi. Nhưng liệu chất lượng đã rớt tới mức độ nào?
Để phân tích, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét sự lựa chọn trường của những thí sinh thi đại học, nhằm tăng cao nhất kỳ vọng trúng tuyển, và khả năng kiếm được việc làm sau khi ra trường.
Giáo dục đại học Việt Nam, giống như các hệ thống giáo dục đại học trên thế giới, đã kinh qua nhiều thay đổi lớn, toàn diện và nhanh chóng. Các thay đổi đó bắt đầu từ cuộc cải tổ giáo dục đại học năm 1987 khi cơ chế thị trường được giới thiệu vào xã hội Việt Nam. Với sự mở rộng đào tạo của các trường đại học, tăng số lượng lớp học, số lượng sinh viên và các khóa học, qui mô đào tạo ở các trường đại học Việt Nam ngày càng mở rộng đến nổi khó có thể kiểm soát được chất lượng giáo dục, và dẫn đến tình trạng yếu kém về chất lượng.
Điểm yếu quan trọng nhất của chúng ta là thiếu một hệ thống lý luận chặt chẽ và khoa học về vai trò, tầm nhìn, sứ mạng, mục đích và mục tiêu của giáo dục đại học. Bên cạnh đó, việc thiếu các văn bản có tính quy phạm và chuẩn mực quản lý càng làm cho việc phát triển của các trường đại học luôn ở trong tình trạng tự phát và manh mún. Nói một cách khách quan, giáo dục đại học Việt Nam từ sau đổi mới đã có nhiều thay đổi tích cực từ hình thức đến nội dung đào tạo và nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu so với trình độ phát triển của giáo dục đại học thế giới thì khoảng cách giữa họ và ta vẫn còn khá rộng. Để có thể cải tiến và thúc đẩy tốc độ phát triển, điều mà các nhà quản lý và giáo dục thường làm là xác định mục tiêu, hoạch định chiến lược, cơ chế quản lý, phương pháp và thực hiện, và cuối cùng là đánh giá kết quả. Mà chúng ta thì chưa quen làm điều đó.
Việc cải tổ một nền giáo dục là vô cùng khó khăn, dài hạn và chưa phải ai cũng muốn. Để tránh làm một cuộc cách mạng không cần thiết, chúng ta chấp nhận sự thay đổi từng bước. Bước thứ nhất của quá trình thay đổi này là việc xác định những mặt còn yếu kém của giáo dục đại học. Bước thứ hai, việc xác định các mục tiêu lâu dài và trước mắt là vô cùng cần thiết. Điều này cũng giống như việc định hướng chiến lược, làm cơ sở cho các bước kế tiếp là vạch ra các bước, các kế họach thực hiện, chuẩn bị nguồn lực, phân công trách nhiệm và đánh giá việc thực hiện. Có thể tóm tắt các bước đó trong sơ đồ sau đây:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top