nthanhxuan80
New Member
Download Tiểu luận Hoạt động địa chất của biển
Quá trình trầm tích:
Xảy ra ở những vùng nước sâu và yên tĩnh. Theo nhiều đới khác nhau.
Một chu trình trầm tích hoàn chỉnh thường gồm các giai đoạn cơ bản
+ cung cấp vật liệu trầm tích
+ vận chuyển vật liệu tới bồn lắng đọng
+ trầm lắng xuống đáy biển
+ chuyển trầm tích thành đá.
Sự phân phối các loại trầm tich thay đổi theo các khu vực ở đáy đại dương:
Khu vực thềm lục địa: biển nông, sóng mạnh nhưng rất giầu các loại sinh vật và đặc biệt tiếp nhận nhiều vật liệu từ lục địa do nước chảy trên mặt đem đến.
Khu vực sườn lục địa: khu vực này tương đối xa bờ, độ dốc lớn, nước ít chuyển động, các vật liệu đọng trầm tích chủ yếu là bùn có nguồn gốc lục địa và bùn hữu cơ.
Khu vực đáy đại dương: do xa bờ nên trầm tích ở đây chủ yếu là bùn hữu cơ. Ví dụ như bùn globigerina, bùn radiolaria.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
I – Mở đầu:
Bạn đã từng một lần đi đến tận nơi ngắm nhìn và chạm tay vào từng khối nhũ đá mát lạnh ở động Phong Nha- Kẻ Bàng chưa? Đó là một cảm giác rất tuyệt! Và đã bao giờ bạn thắc mắc vì sao lại có những hang động đẹp như vậy? Đó là kiến trúc điêu khắc tuyệt đẹp của thiên nhiên đấy! Bạn có biết? Biển và đại dương chiếm 70,8% diện tích bề mặt trái đất (361 triệu km2). Thể ích nước biển và đại dương khoảng 1.370.323.000 km3. Sự kì diệu của thiên nhiên đã đem lại cho con người những lợi ích to lớn như sản lượng hải sản, muối… và điều hòa khí hậu trên trái đất. Rõ ràng những lợi ích đó con người hoàn toàn biết song lại ít người hiểu được quá trình hoạt động địa chất của biển. Bài thảo luận này sẽ giúp các bạn làm rõ thêm về biển.
Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hay là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương một cách tự nhiên như biển Caspi,biển chết.
Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ.Lớp vỏ đại dương dày trung bình khoảng 4,5km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp bazan núi lửa mỏng đã đông cứng. lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuôc mặt ngoài của lớp phủ trái đất tại những nơi không có châu lục nào.
Địa hình đáy đại dương cực kỳ phức tạp,có nhiều núi cao ngầm dưới nước, những vùng đồng bằng khá bằng phẳng, có nhiều hố sụt lún và các đứt gãy sâu.
Hình 1: Sơ đồ đáy đại dương
Thềm lục địa tiếp giáp với lục địa, sâu không quá 200m, thềm lục địa chiếm 7,6% diện tích đáy đại dương, bề rộng luôn thay đổi.
Sườn lục địa tiếp giáp với thềm lục địa, sâu từ 200m – 2500m, chiếm 15% diện tích đáy đại dương, độ dốc trung bình thay đổi từ 3,50 -7,50, địa hình phức tạp dần,thường bị chia cắt bởi các rãnh sâu.
Đáy đại dương tiếp giáp với sườn lục địa, độ sâu từ 2500m -6000m, chiếm 76% điện tích đáy đại dương, địa hình bằng phẳng và có dãy núi ngầm.
Vực thẳm là tầng cuối cùng có độ sâu từ 6000m, chiếm 1,2% diện tích bề mặt đại dương
II – Nội dung:
1 - Hoạt động địa chất của biển
1.1- Quá trình phá hủy:
1.1.1 – Phá hủy vật lý:
Tác nhân của quá trình phá hủy vật lý là sóng, thủy triều và hải lưu
a)Quá trình xâm thực của sóng:
Sóng là một hình thức dao đọng của nước biển theo chiều thẳng đứng, nhưng lại cho người ta cảm giác là nước dao động theo chiều ngang từ ngoài khơi xô vào bờ. Nguyên nhân là do gió,động đất, núi lửa nhưng chủ yếu là do gió. Hầu hết sóng trên đại dương phat triển lớn lên dưới tác động của những cơn gió thổi vào mặt nước. Những cơn sóng này thay đổi từ những cơn sóng lăn tăn đến những cơn sóng to lớn có khả năng hủy diệt gây xói lở bờ biển, phá tan nhà cửa và nhấn chìm tau thuyền. Trong điều kiện nước sâu, kích cỡ của sóng biển phụ thuộc vào tốc độ gió, độ dài thời gian gió thổi, và khoảng cách gió đi qua. Cơn gió có tốc độ 25km/h kéo dài trong vòng 2-3 tiếng đi qua một vịnh rộng 1km sẽ tạo ra những cơn sóng cao 0,5m. Nếu cơn bão có tốc độ 90km/h liền trong nhiều ngày theo một lộ trình có chiều rộng 3500km có thể tạo ra những cơn sóng cao 30m.
Sóng là tác nhân quan trọng trong quá trình xâm thực của biển và đại dương. Là một trong những yếu tố hình thành các dạng địa hình bờ biển. Tốc độ phá hủy của sóng phụ thuộc vào cường độ của sóng, độ dốc của bờ biển và đáy biển, các đặc điểm về thế nằm, độ cứng, kiến trúc và cấu tạo của đất đá ở bờ biển.
Sóng vỗ bờ gây nên sự phá hủy vật lý cực mạnh, rõ nhất ở các núi đá vách đứng.
Núi đá vách đứng ở vịnh hạ long
Sóng càng lớn, sức phá hủy càng mạnh, áp suất của sóng đập vào bờ có khi hàng chục tấn/m2.các mảnh vụn đá do nước đem theo đập vào bờ gây phá hủy mạnh các lớp đá ven bờ.
Theo thời gian, sóng đập vào vách đá, khoét thành các ổ lõm, đến một lúc nào đó toàn bộ khối đất đá ở trên sẽ đổ xuống và vỡ vụn ra. Như vậy sự phá hủy của sóng làm bờ biển lùi dần vào lục địa, quá trình này phụ thuộc vào bản chất của đá ven bờ, đá mềm diễn ra nhanh và ngược lại.
.Hiện tượng hàm ếch là hiện tượng theo thời gian sóng đập vào vách đá khoét thành các ổ lõm Quá trình hòa tan đá vôi vào nước biển được tăng cường nhờ hoạt động của sóng và thủy triều đã tạo nên các hàm ếch biển. Trong những điều kiện thuận lợi, hàm ếch được khoét sâu thành hang nhỏ, thậm chí xuyên qua các khối núi đá vôi thành hang luồn nối với các hồ nước, hay vụng nước biển. Đặc trưng của các hang hàm ếch biển là có một mái trần nằm ngang, khá phẳng, cắt ngang qua khối đá vôi.
Hang Tiền ở Kiên Giang
b) Quá trinh phá hủy củaThủy triều:
Là hiện tượng nước biển lên xuống theo chu kỳ và biên độ nhất định. Hiện tượng này có những đặc điểm của một dao động sóng. Điều đó làm cho hoaạt động phá hủy trở nên mạnh mẽ hơn.
Sơ đồ dưới đây giải thích nguyên nhân hiện tượng thủy triều có ảnh hưởng tới quá trình phá hủy. Tạm tưởng tượng toàn bộ mặt trái đất là nước mọi điểm trên mặt có lực ly tâm khá mạnh vuông góc với trục quay, ở tâm trái đất lực ly tâm và hấp dẫn bằng nhau nên triệt tiêu. Tại A, lực hấp dẫn lớn hơn lực ly tâm, hợp lực nó dồn nước ở Avề B. ở b lực hấp dẫn lớn nhất kéo dồn nức ở A và C về B, ở C giống ở A, ở D lực hấp dẫn cũng kéo dồn nước ở A và C về D. Kết quả là nước ở A và C hạ xuống đồng thời nước ở B và D dâng lên do sự chuyển động tự xoay quanh trục của trai đất nên trong một ngày mọi điểm trên bề mặt trái đất đều qua 4 vị trí A,B,C,D gây ra hiện tượng thủy triều dâng lên hạ xuống 2 lần trong một ngày, lượng sóng tạo ra va đập vào hang đá làm phá hủy rất nhanh.
Nguyên nhân hiện tượng thủy triều
Sóng vỗ kêt hợp với hoạt động thủy triều làm tăng cường khả năng phá hủy đá và khoáng vật tren diện rộng hơn, thủy triều làm cho đá luân phiên khô ướt, làm tăng cường khả năng phá hủy của sóng biển.
c) Quá trình phá hủy của các dòng chảy:
Đối với cac dòng hải lưu trên mặt sự phá hủy bờ phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy, độ cứng cấu tạo của đá hiện tượng tự quay của trái đất.
Các dòng biển ven bờ chảy theo hướng gần với hướng kinh tuyến ở Bắc bán cầu thì bờ bên phải bị phá hủy mạnh hơn bờ bên trái còn ở Nam bán cầu thì ngược lại.
Còn các dòng biển chảy theo hướng vĩ tuyến thì ở BBC bờ bắc bị phá hủy mạnh hơn bờ nam, còn NBC thì ngược lại.
1.1.2- phá hủy hóa học:
Nước biển của các đại dương trên thế giới thường chứa khoảng 3,5% các muối hoà tan: 2,73% NaCl ; 0,32% MgCl2 ; 0,22% MgSO4 ; 0,13% CaSO4; 0,02% KHCO3 và một lượng nhỏ CO2 và O2 hoà tan, pH » 8,0. Do vậy, nước biển của các đại dương mang tính xâm thực mạnh
Những trận mưa lớn ở vùng gần xích đạo pha loãng độ mặn còn 3,45%, ngược lại trong những vùng cận nhiệt đới khô nơi lượng bốc hơi cao và lượng mưa thấp độ mặn có thể lên tới 3,6%....
Download Tiểu luận Hoạt động địa chất của biển miễn phí
Quá trình trầm tích:
Xảy ra ở những vùng nước sâu và yên tĩnh. Theo nhiều đới khác nhau.
Một chu trình trầm tích hoàn chỉnh thường gồm các giai đoạn cơ bản
+ cung cấp vật liệu trầm tích
+ vận chuyển vật liệu tới bồn lắng đọng
+ trầm lắng xuống đáy biển
+ chuyển trầm tích thành đá.
Sự phân phối các loại trầm tich thay đổi theo các khu vực ở đáy đại dương:
Khu vực thềm lục địa: biển nông, sóng mạnh nhưng rất giầu các loại sinh vật và đặc biệt tiếp nhận nhiều vật liệu từ lục địa do nước chảy trên mặt đem đến.
Khu vực sườn lục địa: khu vực này tương đối xa bờ, độ dốc lớn, nước ít chuyển động, các vật liệu đọng trầm tích chủ yếu là bùn có nguồn gốc lục địa và bùn hữu cơ.
Khu vực đáy đại dương: do xa bờ nên trầm tích ở đây chủ yếu là bùn hữu cơ. Ví dụ như bùn globigerina, bùn radiolaria.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
Tiểu luận: hoạt động địa chất của biểnI – Mở đầu:
Bạn đã từng một lần đi đến tận nơi ngắm nhìn và chạm tay vào từng khối nhũ đá mát lạnh ở động Phong Nha- Kẻ Bàng chưa? Đó là một cảm giác rất tuyệt! Và đã bao giờ bạn thắc mắc vì sao lại có những hang động đẹp như vậy? Đó là kiến trúc điêu khắc tuyệt đẹp của thiên nhiên đấy! Bạn có biết? Biển và đại dương chiếm 70,8% diện tích bề mặt trái đất (361 triệu km2). Thể ích nước biển và đại dương khoảng 1.370.323.000 km3. Sự kì diệu của thiên nhiên đã đem lại cho con người những lợi ích to lớn như sản lượng hải sản, muối… và điều hòa khí hậu trên trái đất. Rõ ràng những lợi ích đó con người hoàn toàn biết song lại ít người hiểu được quá trình hoạt động địa chất của biển. Bài thảo luận này sẽ giúp các bạn làm rõ thêm về biển.
Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hay là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương một cách tự nhiên như biển Caspi,biển chết.
Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ.Lớp vỏ đại dương dày trung bình khoảng 4,5km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp bazan núi lửa mỏng đã đông cứng. lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuôc mặt ngoài của lớp phủ trái đất tại những nơi không có châu lục nào.
Địa hình đáy đại dương cực kỳ phức tạp,có nhiều núi cao ngầm dưới nước, những vùng đồng bằng khá bằng phẳng, có nhiều hố sụt lún và các đứt gãy sâu.
Hình 1: Sơ đồ đáy đại dương
Thềm lục địa tiếp giáp với lục địa, sâu không quá 200m, thềm lục địa chiếm 7,6% diện tích đáy đại dương, bề rộng luôn thay đổi.
Sườn lục địa tiếp giáp với thềm lục địa, sâu từ 200m – 2500m, chiếm 15% diện tích đáy đại dương, độ dốc trung bình thay đổi từ 3,50 -7,50, địa hình phức tạp dần,thường bị chia cắt bởi các rãnh sâu.
Đáy đại dương tiếp giáp với sườn lục địa, độ sâu từ 2500m -6000m, chiếm 76% điện tích đáy đại dương, địa hình bằng phẳng và có dãy núi ngầm.
Vực thẳm là tầng cuối cùng có độ sâu từ 6000m, chiếm 1,2% diện tích bề mặt đại dương
II – Nội dung:
1 - Hoạt động địa chất của biển
1.1- Quá trình phá hủy:
1.1.1 – Phá hủy vật lý:
Tác nhân của quá trình phá hủy vật lý là sóng, thủy triều và hải lưu
a)Quá trình xâm thực của sóng:
Sóng là một hình thức dao đọng của nước biển theo chiều thẳng đứng, nhưng lại cho người ta cảm giác là nước dao động theo chiều ngang từ ngoài khơi xô vào bờ. Nguyên nhân là do gió,động đất, núi lửa nhưng chủ yếu là do gió. Hầu hết sóng trên đại dương phat triển lớn lên dưới tác động của những cơn gió thổi vào mặt nước. Những cơn sóng này thay đổi từ những cơn sóng lăn tăn đến những cơn sóng to lớn có khả năng hủy diệt gây xói lở bờ biển, phá tan nhà cửa và nhấn chìm tau thuyền. Trong điều kiện nước sâu, kích cỡ của sóng biển phụ thuộc vào tốc độ gió, độ dài thời gian gió thổi, và khoảng cách gió đi qua. Cơn gió có tốc độ 25km/h kéo dài trong vòng 2-3 tiếng đi qua một vịnh rộng 1km sẽ tạo ra những cơn sóng cao 0,5m. Nếu cơn bão có tốc độ 90km/h liền trong nhiều ngày theo một lộ trình có chiều rộng 3500km có thể tạo ra những cơn sóng cao 30m.
Sóng là tác nhân quan trọng trong quá trình xâm thực của biển và đại dương. Là một trong những yếu tố hình thành các dạng địa hình bờ biển. Tốc độ phá hủy của sóng phụ thuộc vào cường độ của sóng, độ dốc của bờ biển và đáy biển, các đặc điểm về thế nằm, độ cứng, kiến trúc và cấu tạo của đất đá ở bờ biển.
Sóng vỗ bờ gây nên sự phá hủy vật lý cực mạnh, rõ nhất ở các núi đá vách đứng.
Núi đá vách đứng ở vịnh hạ long
Sóng càng lớn, sức phá hủy càng mạnh, áp suất của sóng đập vào bờ có khi hàng chục tấn/m2.các mảnh vụn đá do nước đem theo đập vào bờ gây phá hủy mạnh các lớp đá ven bờ.
Theo thời gian, sóng đập vào vách đá, khoét thành các ổ lõm, đến một lúc nào đó toàn bộ khối đất đá ở trên sẽ đổ xuống và vỡ vụn ra. Như vậy sự phá hủy của sóng làm bờ biển lùi dần vào lục địa, quá trình này phụ thuộc vào bản chất của đá ven bờ, đá mềm diễn ra nhanh và ngược lại.
.Hiện tượng hàm ếch là hiện tượng theo thời gian sóng đập vào vách đá khoét thành các ổ lõm Quá trình hòa tan đá vôi vào nước biển được tăng cường nhờ hoạt động của sóng và thủy triều đã tạo nên các hàm ếch biển. Trong những điều kiện thuận lợi, hàm ếch được khoét sâu thành hang nhỏ, thậm chí xuyên qua các khối núi đá vôi thành hang luồn nối với các hồ nước, hay vụng nước biển. Đặc trưng của các hang hàm ếch biển là có một mái trần nằm ngang, khá phẳng, cắt ngang qua khối đá vôi.
Hang Tiền ở Kiên Giang
b) Quá trinh phá hủy củaThủy triều:
Là hiện tượng nước biển lên xuống theo chu kỳ và biên độ nhất định. Hiện tượng này có những đặc điểm của một dao động sóng. Điều đó làm cho hoaạt động phá hủy trở nên mạnh mẽ hơn.
Sơ đồ dưới đây giải thích nguyên nhân hiện tượng thủy triều có ảnh hưởng tới quá trình phá hủy. Tạm tưởng tượng toàn bộ mặt trái đất là nước mọi điểm trên mặt có lực ly tâm khá mạnh vuông góc với trục quay, ở tâm trái đất lực ly tâm và hấp dẫn bằng nhau nên triệt tiêu. Tại A, lực hấp dẫn lớn hơn lực ly tâm, hợp lực nó dồn nước ở Avề B. ở b lực hấp dẫn lớn nhất kéo dồn nức ở A và C về B, ở C giống ở A, ở D lực hấp dẫn cũng kéo dồn nước ở A và C về D. Kết quả là nước ở A và C hạ xuống đồng thời nước ở B và D dâng lên do sự chuyển động tự xoay quanh trục của trai đất nên trong một ngày mọi điểm trên bề mặt trái đất đều qua 4 vị trí A,B,C,D gây ra hiện tượng thủy triều dâng lên hạ xuống 2 lần trong một ngày, lượng sóng tạo ra va đập vào hang đá làm phá hủy rất nhanh.
Nguyên nhân hiện tượng thủy triều
Sóng vỗ kêt hợp với hoạt động thủy triều làm tăng cường khả năng phá hủy đá và khoáng vật tren diện rộng hơn, thủy triều làm cho đá luân phiên khô ướt, làm tăng cường khả năng phá hủy của sóng biển.
c) Quá trình phá hủy của các dòng chảy:
Đối với cac dòng hải lưu trên mặt sự phá hủy bờ phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy, độ cứng cấu tạo của đá hiện tượng tự quay của trái đất.
Các dòng biển ven bờ chảy theo hướng gần với hướng kinh tuyến ở Bắc bán cầu thì bờ bên phải bị phá hủy mạnh hơn bờ bên trái còn ở Nam bán cầu thì ngược lại.
Còn các dòng biển chảy theo hướng vĩ tuyến thì ở BBC bờ bắc bị phá hủy mạnh hơn bờ nam, còn NBC thì ngược lại.
1.1.2- phá hủy hóa học:
Nước biển của các đại dương trên thế giới thường chứa khoảng 3,5% các muối hoà tan: 2,73% NaCl ; 0,32% MgCl2 ; 0,22% MgSO4 ; 0,13% CaSO4; 0,02% KHCO3 và một lượng nhỏ CO2 và O2 hoà tan, pH » 8,0. Do vậy, nước biển của các đại dương mang tính xâm thực mạnh
Những trận mưa lớn ở vùng gần xích đạo pha loãng độ mặn còn 3,45%, ngược lại trong những vùng cận nhiệt đới khô nơi lượng bốc hơi cao và lượng mưa thấp độ mặn có thể lên tới 3,6%....