Download Tiểu luận Một số giải pháp nhằm góp phần kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay miễn phí
Zimbabwe - quốc gia nằm ở phía Nam châu Phi - là đất nước của siêu lạm phát. Tháng 7 năm 2008, theo Ngân hàng Trung ương Zimbabwe, tỷ lệ lạm phát của nước này đã lên tới 2,2 triệu % , cao hơn bất cứ nước nào trên thế giới. Lạm phát được ví như một con tàu tốc hành ngỗ ngược không người lái, không phanh và không giới hạn tốc độ.
Lạm phát đã kéo theo những con số phản ánh bức tranh thảm hại của nền kinh tế Zimbabwe: GDP giảm 7,1%, nợ tính trên đầu người là 806 USD, sản lượng lương thực sa sút (sản lượng ngô – cây lương thực chính giảm 65%)
Nguyên nhân chính của lạm phát ở Zimbabwe bắt nguồn từ cuộc cải cách ruộng đất năm 1990 do Tổng thống Robert Mugabe khởi xướng làm cho ngành quan trọng sống còn của đất nước này là nông nghiệp rơi vào trì trệ khiến lạm phát nhảy vọt. Nếu như trước cải cách, tỷ giá hối đoái (sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau) của đồng đô la Zimbabwe ở thế khá cân bằng so với đô la Mỹ: 1,59 đô la Zimbabwe đổi được 1 USD thì chỉ trong vòng gần 18 năm sau, khi Ngân hàng Dự trữ quốc gia Zimbabwe ban hành đồng tiền mệnh giá lớn nhất thế giới - 100 tỷ đô la vào tháng 7 năm 2008, thì số tiền này chỉ bằng khoảng 1,20 USD. Nội tệ của nước này đã phá giá tới 85% so với đô la Mỹ. Đồng tiền trở nên mất giá trầm trọng.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
- Siêu lạm phát: Là lạm phát mất kiểm soát, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Khi đó, tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã và vô cùng không ổn định. Hiện tượng này thường xảy ra vào thời kỳ chiến tranh hay chuyển đổi cơ cấu kinh tế.3. Đo lường lạm phát:
Thông thường, lạm phát được nhắc đến và tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá cả một “rổ” hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc đặc điểm và cách thức riêng của mỗi nước cụ thể.
Chẳng hạn, ở Mỹ hiện nay, mức lạm phát thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 265 nhóm hàng hóa chính trong 85 thành phố của nước Mỹ.
Trong cuốn “Kinh tế học”, W.D.Nordhaus và P.A.Samuelson cho rằng, chỉ số lạm phát GDP tính bằng tỷ lệ GDP danh nghĩa và GDP thực tế là toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng CPI vì bao quát được tất cả giá các loại hàng hóa và dich jvụ trong GDP.
Ở Việt Nam hiện nay, Tổng cục Thống kê chính thức công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI của toàn quốc được tính theo phương pháp cải tiến:
- Chỉ số giá tiêu dùng chung của cả nước được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
- Chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố được tính theo công thức Lasparye với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình đa mục tiêu do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 1995. Danh mục mặt hàng thay mặt thu thập giá gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, 34 nhóm cấp II và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ. Giá tiêu dùng bình quân năm 1995 được dùng làm giá kỳ gốc cố định.
- Hàng tháng, chỉ só giá tiêu dùng được công bố với 4 gốc so sánh:
+ Kỳ gốc (so với giá tiêu dùng bình quân năm 1995).
+ Tháng trước (hàng tháng).
+ Cùng tháng năm trước (sau 12 tháng).
+ Tháng 12 năm trước.
II. Những tác động của lạm phát:
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thông qua đó, nó cũng có tác động tới đời sống chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tác động trên lĩnh vực kinh tế được coi là nổi bật và quan trọng nhất. Nó làm thay đổi mức độ và hình thức sản lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai hướng: Tiêu cực và tích cực.
Các tác động tiêu cực của lạm phát:
Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc độ lạm phát. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát - với mức độ tiến triển không thể dự báo trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của Chính phủ - là những tai họa khủng khiếp cho đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia. Cụ thể:
- Vì làm rối loạn chứa năng thước đo giá trị của tiền tệ nên lạm phát làm xuyên tạc, bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường; làm cho toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là các hoạt động sản xuất - kinh doanh không thể tiến hành bình thường được. Bản thân vai trò điều tiết nền kinh tế của Chính phủ thông qua tiền tệ và thuế cũng bị suy giảm, thậm chí bị vô hiệu hóa do mức thuế trở nên vô nghĩa trước tốc độ lạm phát.
- Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư, do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận (kiềm hãm các đầu tu dài hạn, kích thích đầu tư ngắn hạn gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa và lãng phí).
- Lạm phát làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín dụng.
- Việc phân phối thu nhập giữa những người nắm giữ các hàng hóa có giá cả tăng khác nhau thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát, phúc lợi xã hội giảm… Việc Chính phủ kiểm soát mức tăng giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng bằng cách quy định giá trần sẽ kéo theo việc làm sai lệch sự phân bố các nguồn lực và thường dẫn tới sự thiếu hụt, chợ đen, tham nhũng…
- Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chí phí dịch vụ nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường kéo theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát.
- Sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng đầu tư nước ngoài đổ vào bị chậm, chững lại thậm chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những hàng hóa, vật tư cần thiết, Lạm phát cao luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn và làm thâm hụt đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
2. Tác động tích cực của lạm phát:
Với tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2% đến dưới 5%/năm ở những nước phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), và với việc “chỉ số hóa” lạm phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, lạm phát có thể đem lại một số lợi ích:
- Lạm phát vừa phải được ví như dầu mỡ giúp “bôi trơn” nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể thông qua lạm phát từ 2% đến 4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm (lãi suất tiết kiệm thấp hơn lạm phát), có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó, giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Lạm phát vừa phải cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm phát, giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
III. Phân tích 3 tình huống trong thực tế để làm rõ tác động của lạm phát:
1. Ảnh hưởng của lạm phát tới thị trường lương thực - thực phẩm ở Việt Nam năm 2007:
Năm 2007, dưới tác động của tỷ lệ lạm phát là 8,4%, giá lương thực - thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao, đạt mức 18,9%. Trong đó, nhóm lương thực tăng 15,5%, nhóm thực phẩm tăng 21,6%. Bước sang năm 2008, tình hình không những không được cải thiện mà giá lương thực - thực phẩm lại ngày càng gia tăng. Chỉ trong 4 tháng đầu năm, giá lương thực - thực phẩm đã tăng 18% - cao tương đương mức giá tăng lương thực - thực phẩm của cả năm 2007. Trong đó, lương thực tăng 25%, thực phẩm tăng 15,6%.
Cụ thể, hiện nay, trong các mặt hàng lương thực, giá cả tăng phát triển nhất là nhóm vừng, lạc, đỗ. Nếu trong năm, giá vừng chỉ khoảng 40.000 đồng/kg, giá lạc là 25.000 đồng/kg thì nay, giá bán tại các chợ đều lần lượt tăng lên 50.000 đồng, 35.000 đồng. Từ các mặt hàng gia vị: Nước mắm, bột canh, mì chính, bột nêm, đường…đến các sản phẩm đông lạnh như: Tôm, cá…, giá cả cũng đều nhích lên so với trước Tết từ 1.000 đồng đến 2.000 đồng. Nước mắm Chinsu mọi khi có giá là 12.000 đồng, giờ bán ra từ 13.500 đồng đến 14.000 đồng/chai. Song mặt hàng được giới kinh doanh nhỏ lẻ nhắc đến nhiều nhất có mức tăng giá không ngừng nghỉ từ trong năm đến này lại chính là mì ăn liền và dầu ăn. Một chai dầu ăn Neptune 1 lit đ