nguoitanoi
New Member
Download Tiểu luận Phân tích các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động miễn phí
MỤC LỤC
A. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HĐLĐ 1
I. Lời mở đầu: 1
II. Nội dung: 1
Điều kiện thứ 1 là HĐLĐ phải đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ: 1
Điều kiện thứ 2 là các bên tham gia HĐLĐ phải có năng lực kí kết, thực hiện và tham gia HĐLĐ (điều kiện về chủ thể). 4
Điều kiện thứ 3 là nội dung của HĐLĐ phải không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. 6
Điều kiện thứ 4 là HĐLĐ phải phù hợp với quy định của pháp luật về loại và hình thức của HĐLĐ 9
III. Kết luận: 11
B. BÀI TẬP 11
A. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HĐLĐ
I. Lời mở đầu:
Trong hệ thống pháp luật lao động, HĐLĐ là một chế định chiếm vị trí rất quan trọng do đó đây là nội dung sớm được quy định và giữ vai trò trung tâm trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật lao động nhằm điều chỉnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường. Điều 26 BLLĐ đã quy định: “Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.” Một vấn đề khá quan trọng trong chế định HĐLĐ được tìm hiểu trong bài tập này là các điều kiện có hiệu lực của HĐLĐ.
II. Nội dung:
Điều kiện thứ 1 là HĐLĐ phải đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ:
Để hình thành 1 HĐLĐ có hiệu lực và để đảm bảo sự thỏa thuận trong HĐLĐ thực sự là ý chí của các bên, pháp luật lao động quy định những nguyên tắc bắt buộc các bên phải tuân thủ. Điều 9 BLLĐ quy định: “ Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết”. Vì vậy những cam kết trong HĐLĐ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên khi đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ.
Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc tự do tự nguyện khi giao kết hợp đồng. Dưới góc độ pháp luật lao động, đây là nguyên tắc thể hiện một cách sinh động và là sự cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật lao động: Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc cho công dân. Thể hiện nguyên tắc này, BLLĐ quy định “ Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp”( Điều 5 ) và “ Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất , kinh doanh” (khoản 1 Điều 8). Để đảm bảo sự tự do, tự nguyện khi giao kết HĐLĐ, các bên không được dùng các thủ đoạn lừa dối, ép buộc hay đe dọa nhằm buộc người kia vì lo sợ mà phải giao kết hợp đồng mặc dù họ không mong muốn. NLĐ có quyền giao kết HĐLĐ với bất kì NSDLĐ nào và NSDLĐ cũng có quyền tự do thiết lập quan hệ lao động với bất kì NLĐ nào theo nhu cầu nếu không trái pháp luật.Pháp luật lao động ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện là một nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ không chỉ đảm bảo giữ đúng bản chất thỏa thuận của hợp đồng mà còn nhằm tạo tiền đề giúp các bên thực hiện quan hệ HĐLĐ một cách tự giác, quan hệ lao động được duy trì trong sự hài hòa lợi ích và ổn định.
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong việc thỏa thuận, tiến hành giao kết HĐLĐ. Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Tuy nhiên trong quan hệ lao động, NSDLĐ có tự liệu sản xuất, có vốn, là người trả lương cho NLĐ nên NLĐ một cách tự nhiên bị phụ thuộc về kinh tế đối với NSDLĐ. Trước tình hình đó, địa vị NLĐ dễ dàng rơi vào trạng thái yếu thế, dù pháp luật cho họ quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận để kí kết HĐLĐ nhưng NLĐ khó có thể thực hiện được quyền này. Do vậy nguyên tắc bình đẳng trong việc thỏa thuận, tiến hành giao kết HĐLĐ được pháp luật lao động Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới ghi nhận như một nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ nhằm bảo đảm sự cân bằng quyền lợi giữa NLĐ và NSDLĐ. Việc quy định nguyên tắc bình đẳng chủ yếu là tạo ra sự tương đồng về địa vị, cách biểu hiện trong quá trình thỏa thuận hợp đồng. Theo đó, NSDLĐ không được áp dụng các biện pháp, cách thức làm mất đi quyền bình đẳng thỏa thuận tiến tới giao kết HĐLĐ. Ví dụ: NSDLĐ không được viện lý do đơn vị sử dụng quá nhiều lao động, không thể thỏa thuận với từng NLĐ, do vậy soạn thảo sẵn HĐLĐ và nếu NLĐ đồng ý thì kí kết, nếu không đồng ý thì thôi. Việc làm này là vi phạm nguyên tắc bình đẳng, NLĐ không còn cơ hội để cùng NSDLĐ bày tỏ nguyện vọng, thỏa thuận về các nội dung hợp đồng. Ở đây có thể NSDLĐ không có vi phạm về nguyên tắc tự do, tự nguyện ( khi NSDLĐ không hề có ý bắt ép NLĐ vì các điều khoản trong hợp đồng soạn trước đều phù hợp quy định pháp luật ) nhưng vẫn bị xem là vi phạm nguyên tắc bình đẳng. Một khía cạnh khác của nguyên tắc bình đẳng đó là việc NLĐ hoàn toàn có quyền bình đẳng so với NSDLĐ về việc đưa ra những ý kiến, đòi hỏi trong quá trình thỏa thuận kí kết hợp đồng. Bất kì thủ đoạn nào làm mất đi sự bình đẳng trên đều bị pháp luật cấm.
Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể (nếu có) Các bên trong quan hệ lao động phải tuân thủ theo pháp luật. Pháp luật tạo ra hành lang pháp lý giúp các chủ thể có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách thuận lợi, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra. Theo nguyên tắc này, các bên phải tuân thủ các quy định pháp luật về điều kiện chủ thể, nguyên tắc kí kết, hình thức hợp đồng, loại hợp đồng, các nội dung cam kết không trái pháp luật. Ngoài ra, khi kí kết HĐLĐ các bên không được trái thỏa ước lao động tập thể. Thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp nếu được đăng kí tại cơ quan lao động có ý nghĩa quan trọng và được coi như nguồn bổ sung của luật lao động. Pháp luật quy định nguyên tắc này mục đích chủ yếu là để tăng cường lợi ích cho NLĐ. Theo quy định BLLĐ, nội dung thỏa ước không được trái với các quy định của pháp luật lao động. Nhà nước khuyến khích việc kí kết thỏa ước với những quy định có lợi hơn cho NLĐ so với quy định của pháp luật lao động. Vì vậy nếu nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể được thực hiện thì tất cả các HĐLĐ được kí kết sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho NLĐ. Và khi thỏa thuận kí kết HĐLĐ, Nhà nước cũng khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho NLĐ.
Điều kiện thứ hai là các bên tham gia HĐLĐ phải có năng lực kí kết, thực hiện và tham gia HĐLĐ (điều kiện về chủ thể).
+ Về năng lực chủ thể: Các bên trong quan hệ HĐLĐ chính là NLĐ và NSDLĐ. Điều kiện năng lực chủ thể áp dụng cho bản thân NLĐ và bản thân NSDLĐ. Điều 6 BLLĐ quy định: “ NLĐ là người ít nhất đủ15 tuổi, có khả năng lao động và giao kết HĐLĐ”. Như vậy năng lực chủ thể về phía NLĐ gồm ba yếu tố:
Độ tuổi: NLĐ phải ít nhất đủ 15 tuổi. Pháp luật lao động Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều lấy mức độ 15 tuổi làm mốc phát sinh năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động, phù hợp với quy định của ILO. Quy định này là dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học thế giới về sự phát triển của con người trên các mặt sinh học, kinh tế, xã hội. Thứ nhất, về mặt sinh học, ở lứa tuổi 15 các em đã có một quá trình phát triển tương đối về thể lực và trí lực, có khả năng thực hiện các hoạt động lao động một cách bình thường khô...
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
A. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HĐLĐ 1
I. Lời mở đầu: 1
II. Nội dung: 1
Điều kiện thứ 1 là HĐLĐ phải đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ: 1
Điều kiện thứ 2 là các bên tham gia HĐLĐ phải có năng lực kí kết, thực hiện và tham gia HĐLĐ (điều kiện về chủ thể). 4
Điều kiện thứ 3 là nội dung của HĐLĐ phải không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. 6
Điều kiện thứ 4 là HĐLĐ phải phù hợp với quy định của pháp luật về loại và hình thức của HĐLĐ 9
III. Kết luận: 11
B. BÀI TẬP 11
A. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HĐLĐ
I. Lời mở đầu:
Trong hệ thống pháp luật lao động, HĐLĐ là một chế định chiếm vị trí rất quan trọng do đó đây là nội dung sớm được quy định và giữ vai trò trung tâm trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật lao động nhằm điều chỉnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường. Điều 26 BLLĐ đã quy định: “Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.” Một vấn đề khá quan trọng trong chế định HĐLĐ được tìm hiểu trong bài tập này là các điều kiện có hiệu lực của HĐLĐ.
II. Nội dung:
Điều kiện thứ 1 là HĐLĐ phải đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ:
Để hình thành 1 HĐLĐ có hiệu lực và để đảm bảo sự thỏa thuận trong HĐLĐ thực sự là ý chí của các bên, pháp luật lao động quy định những nguyên tắc bắt buộc các bên phải tuân thủ. Điều 9 BLLĐ quy định: “ Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết”. Vì vậy những cam kết trong HĐLĐ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên khi đảm bảo các nguyên tắc giao kết HĐLĐ.
Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc tự do tự nguyện khi giao kết hợp đồng. Dưới góc độ pháp luật lao động, đây là nguyên tắc thể hiện một cách sinh động và là sự cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật lao động: Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc cho công dân. Thể hiện nguyên tắc này, BLLĐ quy định “ Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp”( Điều 5 ) và “ Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất , kinh doanh” (khoản 1 Điều 8). Để đảm bảo sự tự do, tự nguyện khi giao kết HĐLĐ, các bên không được dùng các thủ đoạn lừa dối, ép buộc hay đe dọa nhằm buộc người kia vì lo sợ mà phải giao kết hợp đồng mặc dù họ không mong muốn. NLĐ có quyền giao kết HĐLĐ với bất kì NSDLĐ nào và NSDLĐ cũng có quyền tự do thiết lập quan hệ lao động với bất kì NLĐ nào theo nhu cầu nếu không trái pháp luật.Pháp luật lao động ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện là một nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ không chỉ đảm bảo giữ đúng bản chất thỏa thuận của hợp đồng mà còn nhằm tạo tiền đề giúp các bên thực hiện quan hệ HĐLĐ một cách tự giác, quan hệ lao động được duy trì trong sự hài hòa lợi ích và ổn định.
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong việc thỏa thuận, tiến hành giao kết HĐLĐ. Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Tuy nhiên trong quan hệ lao động, NSDLĐ có tự liệu sản xuất, có vốn, là người trả lương cho NLĐ nên NLĐ một cách tự nhiên bị phụ thuộc về kinh tế đối với NSDLĐ. Trước tình hình đó, địa vị NLĐ dễ dàng rơi vào trạng thái yếu thế, dù pháp luật cho họ quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận để kí kết HĐLĐ nhưng NLĐ khó có thể thực hiện được quyền này. Do vậy nguyên tắc bình đẳng trong việc thỏa thuận, tiến hành giao kết HĐLĐ được pháp luật lao động Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới ghi nhận như một nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ nhằm bảo đảm sự cân bằng quyền lợi giữa NLĐ và NSDLĐ. Việc quy định nguyên tắc bình đẳng chủ yếu là tạo ra sự tương đồng về địa vị, cách biểu hiện trong quá trình thỏa thuận hợp đồng. Theo đó, NSDLĐ không được áp dụng các biện pháp, cách thức làm mất đi quyền bình đẳng thỏa thuận tiến tới giao kết HĐLĐ. Ví dụ: NSDLĐ không được viện lý do đơn vị sử dụng quá nhiều lao động, không thể thỏa thuận với từng NLĐ, do vậy soạn thảo sẵn HĐLĐ và nếu NLĐ đồng ý thì kí kết, nếu không đồng ý thì thôi. Việc làm này là vi phạm nguyên tắc bình đẳng, NLĐ không còn cơ hội để cùng NSDLĐ bày tỏ nguyện vọng, thỏa thuận về các nội dung hợp đồng. Ở đây có thể NSDLĐ không có vi phạm về nguyên tắc tự do, tự nguyện ( khi NSDLĐ không hề có ý bắt ép NLĐ vì các điều khoản trong hợp đồng soạn trước đều phù hợp quy định pháp luật ) nhưng vẫn bị xem là vi phạm nguyên tắc bình đẳng. Một khía cạnh khác của nguyên tắc bình đẳng đó là việc NLĐ hoàn toàn có quyền bình đẳng so với NSDLĐ về việc đưa ra những ý kiến, đòi hỏi trong quá trình thỏa thuận kí kết hợp đồng. Bất kì thủ đoạn nào làm mất đi sự bình đẳng trên đều bị pháp luật cấm.
Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể (nếu có) Các bên trong quan hệ lao động phải tuân thủ theo pháp luật. Pháp luật tạo ra hành lang pháp lý giúp các chủ thể có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách thuận lợi, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra. Theo nguyên tắc này, các bên phải tuân thủ các quy định pháp luật về điều kiện chủ thể, nguyên tắc kí kết, hình thức hợp đồng, loại hợp đồng, các nội dung cam kết không trái pháp luật. Ngoài ra, khi kí kết HĐLĐ các bên không được trái thỏa ước lao động tập thể. Thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp nếu được đăng kí tại cơ quan lao động có ý nghĩa quan trọng và được coi như nguồn bổ sung của luật lao động. Pháp luật quy định nguyên tắc này mục đích chủ yếu là để tăng cường lợi ích cho NLĐ. Theo quy định BLLĐ, nội dung thỏa ước không được trái với các quy định của pháp luật lao động. Nhà nước khuyến khích việc kí kết thỏa ước với những quy định có lợi hơn cho NLĐ so với quy định của pháp luật lao động. Vì vậy nếu nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể được thực hiện thì tất cả các HĐLĐ được kí kết sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho NLĐ. Và khi thỏa thuận kí kết HĐLĐ, Nhà nước cũng khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho NLĐ.
Điều kiện thứ hai là các bên tham gia HĐLĐ phải có năng lực kí kết, thực hiện và tham gia HĐLĐ (điều kiện về chủ thể).
+ Về năng lực chủ thể: Các bên trong quan hệ HĐLĐ chính là NLĐ và NSDLĐ. Điều kiện năng lực chủ thể áp dụng cho bản thân NLĐ và bản thân NSDLĐ. Điều 6 BLLĐ quy định: “ NLĐ là người ít nhất đủ15 tuổi, có khả năng lao động và giao kết HĐLĐ”. Như vậy năng lực chủ thể về phía NLĐ gồm ba yếu tố:
Độ tuổi: NLĐ phải ít nhất đủ 15 tuổi. Pháp luật lao động Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều lấy mức độ 15 tuổi làm mốc phát sinh năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động, phù hợp với quy định của ILO. Quy định này là dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học thế giới về sự phát triển của con người trên các mặt sinh học, kinh tế, xã hội. Thứ nhất, về mặt sinh học, ở lứa tuổi 15 các em đã có một quá trình phát triển tương đối về thể lực và trí lực, có khả năng thực hiện các hoạt động lao động một cách bình thường khô...
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tiểu luận mẫu pdf điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động, tiểu luận mẫu điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động năm 2014, phân tích điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, tiểu luận Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động., bảo đảm hài hòa lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ, tiểu luận hợp đồng lao động và điều kiện, tiểu luận phân tích các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động., tiểu luận Trình bày đặc điểm của hợp đồng lao động? Phân tích các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động., luật hợp đồng lao đông mới nhất Phân tích các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động., tiểu luận phân tích điều kiện của hợp đồng vay