Arny

New Member
Download Tiểu luận Tìm hiểu ba vụ việc có tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự có điều kiện

Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu ba vụ việc có tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự có điều kiện





Dàn bài
 
I/Đặt vấn đề
II/ Ba vụ việc có tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự có điều kiện
1. Tìm hiểu khái quát giao dịch dân sự có điều kiện
2. tình huống 1
3. tình huống 2
4. tình huống 3
III/ Kết luận
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

điều kiện
- Khái niệm về giao dịch dân sự :
Giao dịch dân sự là hợp đồng hay hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự.” (Theo điều 121, BLDS 2005.)
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí phải được thê hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một giao dịch dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích pháp lý (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực , nếu như các bên trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật .
Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được pháp luật bảo đảm thực hiện. Để được pháp luật bảo đảm thực hiện thì cá quyền và nghìa vụ đó phải được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự không phù hợp với quy định của pháp luật thì giao dịch dân sự đó có thể bị vô hiệu.
- Giao dịch dân sự có điều kiện :
Giao dịch có điều kiện là giao dịch dân sự mà hiệu lực của nó phát sinh hay hủy bỏ phụ thuộc vào sự kiện nhất định., khi sự kiện đó xảy ra thì giao dịch phát sinh hay hủy bỏ. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hay hủy bỏ (Khoản 1 Điều 125, BLDS 2005). Giao dịch dân sự có điều kiện cũng tương đối phổ biến và được các chủ thể áp dụng để thoả mãn quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều kiện trong giao dịch dân sự có thể là do một bên đưa ra (hành vi pháp lí đơn phương) hay do các bên thỏa thuận (hợp đồng).
Điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện có thể là điều kiện làm phát sinh,tức là giao dịch đã được xác lập nhưng chỉ phát sinh hiệu lực khi có sự kiện được coi là điều kiện xảy ra. Ví dụ: Trong di chúc người để lại di sản đưa ra điều kiện để hưởng di sản của người thừa kế, hay A thỏa thuận với B rằng sẽ bán lại cái xe máy cho B nếu A mua xe mới… Điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện có thể là điều kiện hủy bỏ giao dịch, tức là giao dịch đã được xác lập và phát sinh hiệu lực nhưng khi có sự kiện là điều kiện xảy ra thì giao dịch bị hủy bỏ. Ví dụ: A thỏa thuận với B rằng A sẽ mua lại con bò của B để lấy thịt nhưng các bên thỏa thuận nếu trước khi A lấy bò mà con bò có bệnh thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ. Điều kiện trong giao dịch dân sự phải là những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, có thể thực hiện được và không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hay của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có sự tác động của một bên hay của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hay huỷ bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra (Khoản 2 Điều 125, BLDS 2005). Điều này đưa ra nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong giao dịch dân sự cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên pháp luật quy định.
Tình huống 1 :Yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Lê, sinh năm 1929, trú tại 23 Tản Viên, Phước Hòa, Nha Trang; ủy quyền cho bà Đỗ Thị Ngọc Mai, sinh năm 1973, trú tại 47B Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Nha Trang đại diện.
Bị đơn: Ông Đặng Hữu Trọn, sinh năm 1958.
Bà Nguyễn Thị Mỹ Nga, sinh năm 1958.
Cả hai đều trú tại: 23 Tản Viên, Phước Hòa, Nha Trang.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Từ Ngọc Hiệp, ông Từ Hữu Tâm, bà Từ Thị Mỹ Vân, bà Từ Thị Thành Thiện, bà Từ thị Thành Phúc. Cùng trú tại Australia.
Tất cả ùy quyền cho ông Nguyễn Nổi, sinh năm 1930, trú tại 08 Ngô Đức Kế, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
2/ Bà Từ Thị Mộng Lành, sinh năm 1961, trú tại 23 Tản Viên, Phước Hòa, Nha Trang, Khánh Hòa.
3/ Ông Từ Kim Phong, sinh năm 1958, trú tại 530 Lê Hồng Phong, Phước Hòa, Nha Trang, Khánh Hòa.
a/ Nội dung vụ án như sau:
Cụ Từ Ngọc Diệm (chết năm 1969) và cụ Huỳnh Thị Lê đã tạo lập được căn nhà số 23 Tản Viên, phường Phước Hòa, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (diện tích nhà 115,50m2, diện tích đất 185,60m2); hai cụ có 07 người con là các ông bà: Từ Kim Phong, Từ Thị Mộng Lành (đều ở Việt Nam); Từ Ngọc Hiệp, Từ Hữu Tâm, Từ Thị Mỹ Vân, Từ Thị Thành Thiện, Từ Thị Thành Phúc (đều định cư tại Úc).
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05-5-2004, lời khai của cụ Lê và bà Đỗ Thị Ngọc Mai (người đại diện theo ủy quyền của cụ Lê) thì ngày 22-8-1996, cụ Lê và hai người con ở Việt Nam là ông Phong, bà Lành đã bán một phần căn nhà 23 Tản Viên (diện tích nhà 89,02m2, diện tích đất 129,05 m2) cho vợ chồng ông Đặng Hữu Trọn và bà Nguyễn Thị Mỹ Nga với giá 264 chỉ vàng; cụ Lê đã nhận 214 chỉ vàng và mượn thêm của vợ chồng ông Trọn 10 chỉ vàng nữa. Hai bên thỏa thuận có nội dung là bên bán phải thu thập được chữ ký của 5 người con còn lại của cụ Lê ở nước ngoài đồng ý bán nhà; nếu thay đổi ý kiến, có tranh chấp khiếu nại làm ảnh hưởng đến thủ tục mua bán hoặc không thu thập được chữ kí của 5 người nêu trên đồng ý bán nhà thì bị phạt gấp 3 số vàng đã nhận (Giấy thỏa thuận mua bán này có chứng thực của công chứng Nhà nước); nay cụ Lê xin hủy hợp đồng mua bán nhà vì 5 người con của cụ ở nước ngoài không đồng ý bán nhà mà để lại làm từ đường và cụ xin chịu phạt gấp đôi số vàng mà cụ đã nhận của vợ chồng ông Trọn, bà Nga.
Bị đơn là ông Đặng Hữu Trọn và bà Nguyễn Thị Mỹ Nga trình bày rằng năm 1996, vợ chồng ông bà mua của cụ Lê căn nhà số 23 Tản Viên với giá 264 chỉ vàng; đã trả cho cụ Lê 214 chỉ vàng và để cụ Lê mua nhà khác; đến đầu năm 1997 lại trả thêm cho cụ Lê 10 chỉ vàng nữa, như vậy cụ Lê đã nhận tiền bán nhà là 224/264 chỉ vàng, sau đó vợ chồng ông nhận nhà, đã sửa chữa nhà và ở ổn định từ đó đến nay; nay vợ chồng ông, bà yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Từ Kim Phong và bà Từ Thị Mộng Lành thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của cụ Lê.
Ông Nguyễn Nổi (người đại diện theo ủy quyền của năm người con của cụ Lê ở nước ngoài là ông Tiệp, ông Tâm, bà Vân, bà Thiện, bà Phúc) trình bày là cả năm người không biết việc cụ Lê, ông Phong và bà Lành bán nhà 23 Tản Viên; việc mua bán này ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top