Download Tiểu luận Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật miễn phí
Ba bộ Dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã chia hôn nhân vô hiệu ra làm hai loại: vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tương đối chỉ do một số người nhất định mà luật quy định cụ thể mới có quyền yêu cầu tiêu huỷ hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất kì người nào cũng có quyền yêu cầu tiêu huỷ và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một thời hiệu hay một sự kiện nào. Hôn nhân vô hiệu sẽ bị Toà án tiêu huỷ. Hậu quả của việc tiêu huỷ có sự quy định khác nhau trong ba bộ Dân luật thời kì này. Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã dựa trên nguyên tắc giảm bớt những hậu quả quá nặng nề đối với vợ chồng, đối với các con nên đã tìm ra những biện pháp nhằm giảm bớt những quy định quá nghiêm ngặt, như quy định khi hôn nhân bị tiêu huỷ thì việc tiêu huỷ đó chỉ có hiệu lực trong tương lai, có nghĩa là trước khi bị tiêu huỷ hôn nhân, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng, con sinh ra vẫn là con trong giá thú, các bên chỉ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn nhân bị tiêu huỷ mà thôi. Nói cách khác về hậu quả pháp lý, trường hợp tiêu huỷ hôn nhân cũng giống như trường hợp ly hôn. Giải pháp trên đây được thừa nhận trong Điều 89 của bộ Dân luật Bắc kỳ. Điều 89 bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm có giá thú mà sinh con, dẫu sau có sự tiêu hôn, không cứ vì duyên cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính thức. Thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng theo cùng một lệ định như khi ly hôn. Việc thanh toán các tài sản của vợ chồng đã tiêu hôn thì cũng làm theo như khi ly hôn”.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
tại và việc xóa bỏ nó cũng như chế độ hôn nhân gia đình phong kiến lạc hậu không hề dễ dàng. Vì thế, nước ta vẫn chưa ban hành đạo luật cụ thể nào trong việc quy định vấn đề hôn nhân gia đình ở Việt Nam, mà chỉ áp dụng những quy định trong pháp luật cũ có chọn lọc. Vì thế, vấn đề hôn nhân cũng như hủy kết hôn trái pháp luật không có nhiều điểm mới. Năm 1950, nước ta có ban hành 2 sắc lệnh số 97-SL và sắc lệnh số 159-SL có điều chỉnh về các quan hệ hôn nhân, gia đình, tuy nhiên cũng không đề cập đến vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật.2.2 Giai đoạn 1954 – 1975:
Đây là giai đoạn mà đất nước ta bị chia cắt, miền Bắc tiếp tục xây dựng chế độ XHCN, trong khi miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Trước tình hình đó, nước ta đã ban hành luật hôn nhân gia đình năm 1959 nhằm đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Bộ luật hôn nhân gia đình năm 1959 với 6 chương chính thức có hiệu lực với miền Bắc từ ngày 1/1/1960. Trong đó, nhà nước đã đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, bình đẳng, một vợ một chồng, xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân phong kiến lạc hậu. Tuy nhiên, luật hôn nhân gia đình năm 1959 chỉ đề cập đến các trường hợp bị cấm kết hôn (Chương II) mà không nói về việc huỷ kết hôn trái pháp luật.
2.3.Giai đoạn 1975 – hiện nay:
Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Nhiệm vụ duy nhất được đặt ra cho toàn thể đất nước hiện giờ chính là việc xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh. Đất nước thống nhất đòi hỏi hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng phải thống nhất trên cả hai miền Nam Bắc. Đồng thời, nhà nước cũng phải sửa đổi hiến pháp nhằm phù hợp với tình hình của đất nước. Hiến pháp năm 1980 ra đời đã đề ra phương hướng cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đối với chế độ hôn nhân và gia đình, hiến pháp 1980 cũng trở thành nền tảng cho sự phát triển của hôn nhân và gia đình Việt Nam. Về cơ bản, tình hình nước ta có nhiều thay đổi so với năm 1959, do vậy việc áp dụng luật hôn nhân gia đình năm 1959 không còn phù hợp. Chính vì thế, luật hôn nhân gia đình năm 1986 được xây dựng và hoàn thiện. Gồm 10 chương và 57 điều, luật hôn nhân gia đình năm 1986 vẫn được xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên, điểm mới trong luật hôn nhân năm 1986 đó chính là những quy định về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Trong khi luật hôn nhân gia đình năm 1959 không quy định về vấn đề này, thì việc hủy kết hôn trái pháp luật được quy định và ghi nhận rõ trong luật hôn nhân gia đình năm 1986 (Điều 9 chương II: “Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật.Một hay hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hay con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật”).
Luật hôn nhân gia đình năm 1986 được Nhà nước ta ban hành trong những năm đầu thời kỳ đổi mới. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã tác động không nhỏ tới tình hình thực tế của các quan hệ hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, sau 10 năm thực hiện, luật hôn nhân gia đình năm 1986 đã cho thấy việc áp dụng giải quyết các tranh chấp trong hôn nhân gia đình còn gặp nhiều vướng mắc, thiếu sót. Trước tình hình đó, nhà nước phải thay đổi một cách toàn diện các bộ luật điều chỉnh về quan hệ hôn nhân gia đình. Năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành bản hiến pháp mới, làm cơ sở để xây dựng bộ luật hôn nhân gia đình. Sau quá trình soạn thảo và hoàn thiện, luật hôn nhân gia đình năm 2000 chính thức được công bố và có hiệu lực. Không chỉ kế thừa những tiến bộ của luật hôn nhân gia đình năm 1986, luật hôn nhân gia đình năm 2000 còn khắc phục được tính định khung và thiếu cụ thể trong các quy định của luật hôn nhân gia đình năm 1986. Trong đó, việc hủy kết hôn trái pháp luật được quy định cụ thể, đầy đủ trong điều 15, 16, 17.
III. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong hệ thống pháp luật nước ta trước Cách mạng tháng Tám.
1.1 Trước thời kỳ Pháp thuộc.
Việt Nam tồn tại chế độ quân chủ, tất cả quyền hành tập trung trong tay vua. Các đạo luật đều do vua ban hành. Tiêu biểu cho pháp luật thời kỳ phong kiến là Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê và Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn. Theo quy định tại các Bộ luật này thì về nguyên tắc, giấy chứng nhận kết hôn được coi là một văn bằng pháp lý đặc biệt quan trọng làm gắn bó vợ chồng trong các quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu việc ký kết văn bằng đó đã phạm vào các điều cấm của luật thì nó sẽ bị coi là vô hiệu (không có giá trị pháp lý) và có thể bị tiêu huỷ. Vì vậy, khi xác lập quan hệ hôn nhân, nếu các bên vi phạm vào các điều kiện về cấm kết hôn thì dù có giấy chứng nhận do cơ quan có thẩm quyền cấp thì hôn nhân đó cũng bị coi là trái pháp luật và sẽ bị tiêu huỷ. Pháp luật thời kỳ này đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, đó là:
- Cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hay tang chồng. (Điều 317 Bộ luật Hồng Đức).
- Cấm kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm tù tội. (Điều 99 Luật Gia Long).
- Cấm kết hôn giữa những người thân thích. (Điều 319 Luật Hồng Đức).
Riêng Bộ luật Hồng Đức còn quy định cấm kết hôn trong một số trường hợp khác như:
- Cấm quan lại không được lấy con hát làm vợ. (Điều 323)
- Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anh đã chết. (Điều 324).
- Cấm quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó. (Điều 33).
- Cấm quan ty lấy con gái trong hạt mình. (Điều 316).
Cổ luật đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, vì vậy nếu việc kết hôn phạm vào một trong những điều cấm đó thì hôn nhân bị coi là vô hiệu và về nguyên tắc thì hôn nhân đó có thể bị tiêu huỷ. Tuy nhiên, hôn nhân là một quan hệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với vợ chồng, đối với các con, đối với gia đình và đối với xã hội, do vậy mà trong cổ luật Việt Nam đã có những quy định nhằm giới hạn những trường hợp có thể xin tiêu huỷ hôn nhân.
Ví dụ: Điều 316 Luật Hồng Đức đã quy định: đối với những trường hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng vào các điều cấm của luật tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không công nhận tính hợp pháp của hôn nhân đó và cần tiêu huỷ hôn nhân. Tại Điều 317 và Điều 323 Luật Hồng Đức có quy định các bên sẽ phải ...
Tags: tìm hiểu về quan hệ pháp luật tiểu luận, tiểu luận hệ thống pháp luật việt nam thời kỳ pháp thuộc, tiểu luận hệ thống pháp luật ở Việt Nam, tiểu luận về việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014., tiểu luận tìm hiểu về quan hệ của pháp luật, tiểu luận tìm hiểu về hệ thống pháp luật, tìm hiểu về hệ thống pháp luật việt nam tiểu luận, chủ đề tiểu luận tìm hiểu về hệ thống tài chính của việt nam, tieu luan tim hieu ve he thong phap luat viet nam, tiểu luận những trường hợp cấm kết hôn, tiểu luận về hệ thống pháp luật việt nam, bài tiểu luận hôn nhân trái pháp luật, Tìm hiểu về hẹ thống pháp luật ở Việt Nam, tiểu luận về kết hôn trái pháp luật, tìm hiểu pháp luật việt nam thời kỳ pháp thuoccj, kế thừa pháp luật thời kỳ pháp thuộc, tiểu luận các trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật, quy định cấm kết hôn thời kỳ pháp thuộc, Pháp luật về kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, tiểu luận kết hôn trái pháp luật