vothanhmai_vk

New Member

Download Tiểu luận Tình hình lạm phát ở nước ta năm 2008 và biện pháp chống lạm phát miễn phí





1. PHẦN I: TỔNG QUAN
1.1. GIỚI THIỆU
1.2. MỤC ĐÍCH
1.3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI
1.3.1. Đối tượng
1.3.2. Phạm vi
1.4. BỐ CỤC CỦA BÀI
Nội dung của bài tiểu luận được chia thành ba phần:
Phần 1: Tổng quan
Phần này giới thiệu khái quát mục đích của bài tiểu luận, đối tượng , phạm vi điều tra, nội dung và bố cục của bài tiểu luận.
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Khái quát chung về lạm phát
Chương 2: Tình hình lạm phát 2008
Chương 3: Biện pháp
Phần 3: Kết luận
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ộc siêu lạm phát điển hình diễn ra tại Đức vào tháng 11/1923 với tỷ lệ 10.000.000 lần do với tháng 11/1922. Sau này,ở các nước khác, siêu lạm phát diễn ra như Bolivia vào 1985 với tỷ lệ 50.000%.
2.2. CHƯƠNG II:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT 2008
2.2.1. NGUYÊN NHÂN
Sau cơn khủng hoảng lạm phát vào những năm 1980 đầu 1990 giá cả Việt Nam đã duy trì ổn định với tỷ lệ lạm phát bình quân chỉ trên 3% trong những năm 1996 – 2003. Tuy nhiên, những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008, nước ta đã phải đương đầu với nạn lạm phát. Năm 2008 được coi là có hai cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế. Không nằm ngoài những nguyên chung đã gây ra nạn lạm phát thì năm 2008 còn có cho nó những nguyên nhân riêng. Vậy nguyên nhân gây ra lạm phát 2008 là do đâu?
2.2.1.1. Tác động của thị trường thế giới
Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy giảm mạnh 4.9% năm 2007, dự báo xuống 4% năm 2008. Thương mại quốc tế giảm mạnh so với năm 2006. Nền Kinh tế Mỹ (chiếm ¼ GDP toàn Thế giới) đang suy giảm, chuyển qua suy thoái, ảnh hưởng đến giá cả nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm trên toàn Thế giới tăng đột biến dẫn đến lạm phát xảy ra ở nhiều nước. Thị trường tài chính Thế giới thiệt hại khoảng 3500 tỷ USD, đặc biệt Việt Nam đang được đánh giá là “ngôi sao đang lên”. Sau khi gia nhập WTO thì nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam từ các nhà đầu tư nước ngoài rất lớn đã góp phần làm tăng chi tiêu, xây dựng, chứng khoán, lạm phát. Bởi vì Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu vì vậy khi nền kinh tế gặp trục trặc thì ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế của Việt Nam.
2.1.1.2. Tàn dư của năm 2007
Tại Việt Nam các nguyên nhân phát sinh lạm phát trên đều xuất hiện với những trọng số khác ở mỗi thời kỳ khác nhau. Năm 2007 là năm mà các nhà nước tích tụ bấy lâu nay gặp cơn lốc lạm phát Thế giới. Ở năm 2008, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh. Năm 2007 là 12.63% và ba tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%, đặc biệt là cán cân thương mại năm 207 thâm hụt lớn. Cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% ở mức đáng lo ngại. Hệ thống chính trị khủng hoảng do những tác bên trong hay bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của nhà nước xói mòn. Từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hay đánh giá thấp giấy bạc mà nhà nước phát hành. Khủng hoảng giá nhiên liệu, giá lương thực, sắt thép… trên Thế giới vừa được hạ nhiệt thì cuộc khủng hoảng địa ốc cho vay dưới chuẩn mực ở nước Mỹ được “ủ bệnh” từ hơn một năm trước bùng phát vào giữa tháng 9 đã lan nhanh sang lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế, lao động, việc làm và lan nhanh sang các khu vực các nước.
2.1.1.4. Lạm phát do chi phí đẩy
Trong năm 2008, giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm và nguyên liệu đầu vào chủ chốt cho nền kinh tế như xăng dầu, sắt thép… giá nhân công tăng mạnh. Nước ta nhập khẩu chiếm 90% GDP tuy là giá xăng dầu tăng cao trong phamj vi toàn cầu nhưng tình hình lạm phát ở các nước khác không trầm trọng như nước ta. Do tăng chi phí sản xuất vào việc sử dụng nguồn lực còn thấp, tiền lương thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp với tăng trưởng đã khơi mào cho quá trình lạm phát. Ngoài ra nếu nhìn sâu hơn thì có một nguyên nhân đơn giản mà ai cũng thấy rõ là làm giảm nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, cụ thể là dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh trong những năm gần đây tái phát 2008, đặc biệt đầu năm 2008 là việc rét đậm rét hại làm chết 8328 con trâu bò ở Tây Bắc Bộ.
2.1.1.5. Lạm phát do cầu kéo
Do tổng cầu vượt trội đã đẩy giá chung lên cao, sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay bên ngoài, từ những chính sách thu chi ngân sách hay thị trường mở rộng, chính sách tài khóa không hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn bện lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm trên 6% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56 nghìn tỷ đồng). Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết nhưng dàu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà. Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tống phương tiện thanh toán) tăng nhanh 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng ba năm cung tiền M2 tăng 134.2% trong khi ba năm GDP chỉ tăng 25.09%. Đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai. Thật không may trong thời điểm nhạy cảm này là một động thái có từ trước của chính phủ. Đó là tăng lương cơ bản 20% vào ngày 1/1/2008
2.1.1.6. Lạm phát do xuất nhập khẩu
Năm 2008 Việt Nam hội nhập kinh tế Thế giới có nhiều doanh nghiệp nước ngoài và trong nước mọc lên. Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn so với tổng cung, hay sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Sản phẩm không tự sản xuất được phải nhập khẩu khi giá nhập khẩu tăng dẫn đến giá bán sản phẩm tăng, đẩy mức giá chung tăng và nước ta đã nhập khẩu cả tỷ lệ lạm phát từ các nước đặc biệt là Trung Quốc.
2.1.1.9. Lạm phát quán tính
Trong đợt sốt giá gạo ảo đã gây ra lạm phát quán tính. Lạm phát trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là hệ quả tích kuyx của quá trình tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua
Do siêu lợi nhuận có được từ đầu cơ trên cả hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã làm nảy sinh cách tiêu dùng mà đặc trưng của nó là mua vét với khối lượng lớn trong thời gian ngắn nhiều loại hàng hóa như vàng, ngoại tệ, đất đai..
2.2.2. Diễn biễn lạm phát 2008
2.2.2.1. Những năm trước lạm phát 2008
Sau cơn khủng hoảng lạm phát vào những năm cuối 1980 đầu 1990, giá cả chung ở Việt Nam đã duy trì ở mức ổn định với những tỷ lệ lạm phát bình quân chỉ trên 3% trong những năm 1996 – 2003. Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta được nhắc đến nhiều từ những năm 1996 – 2003. Có thể thấy liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt trong 4 năm qua: bắt đầu là 9.5% năm 2004; 8.4% năm 2005; 6.6% năm 2006; 12.6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%. Đây là chỉ số CPI từ năm 2000 đến năm 2007 theo Tổng Cục Thống Kê:
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
8%
4%
3%
9.5%
8.4%
6.6%
12.6%
Tại hội thảo giá cả cuối năm 2007, Giáo sư Kenichi Ohno và nhóm kinh tế vĩ mô tài chính của Việt Nam Daragon Fund Limited (VDF) cho rằng: lạm phát của Việt Nam ở mức thấp hơn hay xấp xỉ 10% không phải là thảm họa kinh tế vĩ mô và có thể chấp nhận được nếu n
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top