Download Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện
Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động, nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến VN hoạt động cũng với các cách khác nhau,
Việc cho phép tổ chức con nuôi vào VN hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Nhưng nhiều tổ chức con nuôi sang VN mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Và dẫn đến, số đông các tổ chức con nuôi vào VN hoạt động, tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc NCN ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
3. Nguyên tắc giải quyết việc NCN có yếu tố nước ngoài
Với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật của mỗi nước là khác nhau. Cho nên, cùng điều chỉnh một vấn đề thì pháp luật áp dụng của mỗi nước khác nhau dẫn đến vấn đề XĐPL giữa các nước
Theo pháp luật của các nước để giải quyết XĐPL NCN có yếu tố nước ngoài thì đa số các nước thường áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người NCN và người được nhận làm con nuôi
Theo pháp luật VN, vấn đề giải quyết NCN có yếu tố nước ngoài đã quy định khá cụ thể ở trong NĐ 68/2002 NĐ- CP và ở NĐ 69/2006, thông tư 08/2006 và một số các văn bản hướng dẫn có liên quan khác. Ở đó đã quy định về các điều kiện để cho và nhận NCN có yếu tố nước ngoài ( điều 35 NĐ 69), bao gồm các điều kiện trẻ em được nhận làm con nuôi, điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế…
II. Tình hình NCN có yếu tố nước ngoài hiện nay của Việt Nam
NCN có yếu tố nước ngoài là hiện tượng phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:
1, Những thành tựu đạt được.
1.1. Về khung pháp luật quốc gia: Chúng ta đã tạo được khung pháp lí khá dầy đủ quy định về vấn đề về NCN có yếu tố nước ngoài.
Đối với nước ta, hệ thống các quy phạm về NCN có yếu tố nước ngoài được ban hành mới hay sửa đổi bổ sung đã hình thành nên một chế định pháp lí tương đối đầy đủ và chi tiết. NĐ 68/2002/NĐ-CP là VBPL quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài là bước phát triển quan trọng so với NĐ 184/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định 68 bước đầu đã tiếp cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.
Nghị định 69/2006 và thông tư 08/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về NCN có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích cải thiện môi trường pháp lý theo hướng chặt chẽ và minh bạch, ngày càng gần hơn với những thông lệ quốc tế quy định tại công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác về NCN quốc tế.
1.2. Việt Nam đã kí kết nhiều hợp định hợp tác về NCN với các nước và tạo ra nhiều mái ấm gia đình cho các trẻ em, và cải thiện đời sống của nhiều trẻ em tại cơ sở nuôi dưỡng.
* Các hiệp định hợp tác về NCN của nước ta với các nước:
Đến nay VN đã kí được 16 hiệp định hợp tác con nuôi với các nước và vùng lãnh thổ bao gồm: Pháp ( 01/02/ 2000), Đan Mạch (26/5/2003), Italia (13/6/2003), Ailen ( 23/09/2003, hết hạn vào 01/05/2009), Cộng đồng nói tiếng Pháp Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Đức Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Hà Lan Vương quốc Bỉ (2005), 3 hiệp định với Bỉ chưa có hiệu lực vì phía Bỉ chưa phê chuẩn ), Mĩ (21/06/ 2005, hết hạn vào 01,09/2008), Canada (27/06/2005), Bang Quebec_Canada (15/09/2007), Thụy sĩ (20/12/2005), Ontario_Canada (03/04/2006), Bristish Columbia_Canada (15/9/2007), Alberta_Canada (09/06/2008).
Các hiệp định này là cơ sở quan trọng trong việc giải quyết NCN giữa công dân các nước kí kết. Qua các hiệp định này đã cho thấy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của VN với các cơ quan tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về NCN cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hay 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác NCN với các nước.
* Tìm được các mái ấm gia đình cho các trẻ em:
Từ năm 2003 - 2008 chúng ta đã có trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa VN và nước nhận thông qua các Hiệp định hợp tác về NCN đã được ký kết. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa VN với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng về đại đoàn kết dân tộc đối với người VN định cư ở nước ngoài.
Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em VN làm con nuôi, con nuôi VN hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo, nhiều em phát triển được tài năng của mình, các gia đình cha mẹ nuôi luôn ý thức hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra như cho các em học tiếng Việt... Và trong thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán VN tại nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này
* Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng.
Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở LĐTBXH quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài.
Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại VN cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác NCN quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu /1 trẻ/tháng. Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các d...
Download miễn phí Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện
Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động, nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến VN hoạt động cũng với các cách khác nhau,
Việc cho phép tổ chức con nuôi vào VN hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Nhưng nhiều tổ chức con nuôi sang VN mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Và dẫn đến, số đông các tổ chức con nuôi vào VN hoạt động, tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc NCN ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Quốc năm 1986 về các nguyên tắc xã hội và pháp lí liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp NCN ở trong và ngoài nước. Tiếp đến là Công Ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em 1989, và Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.3. Nguyên tắc giải quyết việc NCN có yếu tố nước ngoài
Với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật của mỗi nước là khác nhau. Cho nên, cùng điều chỉnh một vấn đề thì pháp luật áp dụng của mỗi nước khác nhau dẫn đến vấn đề XĐPL giữa các nước
Theo pháp luật của các nước để giải quyết XĐPL NCN có yếu tố nước ngoài thì đa số các nước thường áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người NCN và người được nhận làm con nuôi
Theo pháp luật VN, vấn đề giải quyết NCN có yếu tố nước ngoài đã quy định khá cụ thể ở trong NĐ 68/2002 NĐ- CP và ở NĐ 69/2006, thông tư 08/2006 và một số các văn bản hướng dẫn có liên quan khác. Ở đó đã quy định về các điều kiện để cho và nhận NCN có yếu tố nước ngoài ( điều 35 NĐ 69), bao gồm các điều kiện trẻ em được nhận làm con nuôi, điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế…
II. Tình hình NCN có yếu tố nước ngoài hiện nay của Việt Nam
NCN có yếu tố nước ngoài là hiện tượng phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:
1, Những thành tựu đạt được.
1.1. Về khung pháp luật quốc gia: Chúng ta đã tạo được khung pháp lí khá dầy đủ quy định về vấn đề về NCN có yếu tố nước ngoài.
Đối với nước ta, hệ thống các quy phạm về NCN có yếu tố nước ngoài được ban hành mới hay sửa đổi bổ sung đã hình thành nên một chế định pháp lí tương đối đầy đủ và chi tiết. NĐ 68/2002/NĐ-CP là VBPL quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài là bước phát triển quan trọng so với NĐ 184/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định 68 bước đầu đã tiếp cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.
Nghị định 69/2006 và thông tư 08/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về NCN có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích cải thiện môi trường pháp lý theo hướng chặt chẽ và minh bạch, ngày càng gần hơn với những thông lệ quốc tế quy định tại công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác về NCN quốc tế.
1.2. Việt Nam đã kí kết nhiều hợp định hợp tác về NCN với các nước và tạo ra nhiều mái ấm gia đình cho các trẻ em, và cải thiện đời sống của nhiều trẻ em tại cơ sở nuôi dưỡng.
* Các hiệp định hợp tác về NCN của nước ta với các nước:
Đến nay VN đã kí được 16 hiệp định hợp tác con nuôi với các nước và vùng lãnh thổ bao gồm: Pháp ( 01/02/ 2000), Đan Mạch (26/5/2003), Italia (13/6/2003), Ailen ( 23/09/2003, hết hạn vào 01/05/2009), Cộng đồng nói tiếng Pháp Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Đức Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Hà Lan Vương quốc Bỉ (2005), 3 hiệp định với Bỉ chưa có hiệu lực vì phía Bỉ chưa phê chuẩn ), Mĩ (21/06/ 2005, hết hạn vào 01,09/2008), Canada (27/06/2005), Bang Quebec_Canada (15/09/2007), Thụy sĩ (20/12/2005), Ontario_Canada (03/04/2006), Bristish Columbia_Canada (15/9/2007), Alberta_Canada (09/06/2008).
Các hiệp định này là cơ sở quan trọng trong việc giải quyết NCN giữa công dân các nước kí kết. Qua các hiệp định này đã cho thấy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của VN với các cơ quan tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về NCN cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hay 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác NCN với các nước.
* Tìm được các mái ấm gia đình cho các trẻ em:
Từ năm 2003 - 2008 chúng ta đã có trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa VN và nước nhận thông qua các Hiệp định hợp tác về NCN đã được ký kết. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa VN với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng về đại đoàn kết dân tộc đối với người VN định cư ở nước ngoài.
Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em VN làm con nuôi, con nuôi VN hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo, nhiều em phát triển được tài năng của mình, các gia đình cha mẹ nuôi luôn ý thức hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra như cho các em học tiếng Việt... Và trong thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán VN tại nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này
* Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng.
Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở LĐTBXH quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài.
Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại VN cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác NCN quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu /1 trẻ/tháng. Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các d...
Tags: tiểu luận nuôi con có yếu tố nước ngoài, bài tiểu luận về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, các hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi của nước ngoài, nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện Nay, TÌNH hình nuôi con nuôi tại vietj nam, Khung Pháp lý quốc tế và trong nước về nuôi con nuôi., tình trạng nuôi con nuôi hiện nay