nuhoang_banggia_11141
New Member
Download Tiểu luận Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh miễn phí
Đoàn kết thực sự để phát huy dân chủ thực sự, để khai thác và phát huy nội lực, để xây dựng cộng đồng dân cư của chúng ta ngày một phát triển; xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu chính đáng và hợp pháp; đường làng, ngõ phố phong quang sạch đẹp; không có tệ nạn xã hội, không có người vi phạm pháp luật, thực hành dân chủ và giữ gìn kỷ cương phép nước, cuộc sống của mọi người, mọi nhà ngày càng ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, ai cũng tham gia học tập, thôn xóm yên bình, môi trường xanh, sạch đẹp. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết nói chung và đoàn kết trong Đảng nói riêng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch để làm nên mọi thắng lợi. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, phải có đảng tiên phong lãnh đạo và Đảng muốn đoàn kết được toàn dân trước hết phải đoàn kết từ trong Đảng. Đảng ta là tổ chức của những người tự nguyện hy sinh vì lý tưởng cao đẹp - độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị của Đảng là nền tảng bảo đảm sự đoàn kết trong Đảng. Là một Đảng cầm quyền, đòi hỏi phải có trí tuệ sáng suốt mới vạch đường lối đúng đắn cho cách mạng; đồng thời, trong Đảng phải có sự đoàn kết nhất trí cao để lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đó. Không có sự thống nhất về tư tưởng, về nhiệm vụ sẽ không có sự sáng suốt trong hành động; không đoàn kết sẽ không tạo được sức mạnh
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đoàn kết là sức mạnh”, đó là một chân lý giản đơn và dễ hiểu hầu như đất nước nào cũng nhắc tới. Kế thừa tư tưởng lớn đó của nhân loại, đặc biệt là thấm nhuần lời kêu gọi của VI.Lê -nin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục cán bộ và nhân dân ta:“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công”.
Người đã trực tiếp xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc, tình đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới. Trên bình diện này, có thể coi đại đoàn kết là một chiến lược lớn của cách mạng, chiến lược về tổ chức nhằm tập hợp lực lượng đến mức đông đảo nhất, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân; thậm chí Người đã thuyết phục và thu phục đến từng dòng họ, từng con người vào mặt trận thống nhất của dân tộc. Đoàn kết còn thuộc phạm trù đạo đức, một tiêu chuẩn cần thiết của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với người làm công tác lãnh đạo, công tác quản lý. Nó nói lên sức thuyết phục, sức lôi cuốn của người lãnh đạo đối với mọi người, đối với quần chúng làm cho quần chúng đồng tâm nhất trí với mình, tự nguyện góp sức mình vào sự nghiệp chung. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại (do nhiều nguyên nhân chúng ta không thể đề cập ở đây) song đều nói lên truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc. Hồ Chí Minh một mặt thấy được những hạn chế của các phong trào này, mặt khác thấy rõ yêu cầu khách quan của sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, khoa học. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển, tắm mình trong phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc, các nước tư bản, người rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh không thể không có sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng khổ thành khối vững chắc. Đến với Lê - nin, đến với cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận ra nhiều yếu tố, nhiều điều mới trong những người yêu chuộng hòa bình “Bôn - Sê – Vích”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tấm gương đó ở V.I Lê -nin mà Người coi là “Người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta”. Hồ Chủ tịch viết: “Lê-nin không chỉ là một lãnh tụ, một người chỉ huy. Đó cũng là một người thầy có sức hấp dẫn, tính coi thường sự xa hoa, lòng ham mê công việc, đời sống trong sạch, sự giản dị và tâm hồn cao thượng của Người, làm cho quả tim của chúng tui hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Nếu thiên tài và đạo đức của Lê -nin có sức hấp dẫn mọi người tập hợp quanh mình để tiến hành sự nghiệp cách mạng thì ở Hồ Chí Minh chúng ta càng thấy đậm nét hình ảnh đó. Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú ý kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ là hai nước đem lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng. Đó là đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo … nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng như chủ trương “Liên Nga, thân cộng, ủng hộ công nông”; “hợp tác Quốc - Cộng” của Tôn Trung Sơn... Trí tuệ của Người, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người đã lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết quanh Người. Về phía Người, Người cũng coi việc đoàn kết với mọi người là một tiêu chuẩn về tư cách của một người cách mạng. Đúng như vậy, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” ngay từ bài đầu “Tư cách của một người kách mệnh” Người đã khuyên: “Tự mình phải - Cần kiệm - Hòa mà không tư”. “Hòa mà không tư” có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Đó là tấm gương đoàn kết chí công vô tư cao thượng và đúng đắn. Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người uyên thâm Nho học. Phải chăng “hòa mà không tư” gần với mệnh đề Nho giáo “Thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua” song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là nghĩa lớn (đại nghĩa) đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì “mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng”. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ.... Đã từ lâu, rất nhiều cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược của nước ta. Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đến Trần Hưng Đạo..., rồi đến cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lược cho thấy sự đoàn kết đã mang lại những thành công lớn lao. Phương Tây: Từ sự đoàn kết 13 bang của hợp chủng quốc chống lại thực dân Anh. Đến đại hồng quân Liên Xô trong thế chiến thứ 2.
Về Kinh tế: Sự đoàn kết của người Nhật từ một nước lạc hậu và thất bại trong chiến tranh, vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế như hiện nay.
Về Xã hội: Sự đoàn kết của nhân dân công cuộc đổi mới, xóa đói giảm cùng kiệt cũng mang lại những thành công lớn.Ngược lại: Loạn 12 xứ quân, sự chia cắt 2 miền nam bắc làm kéo dài cuộc chiến tranh và sự suy thoái. Đến hiện nay, việc mất đoàn kết trong chính trị của Thái Lan đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế và an sinh xã hội của nước này….Riêng ở bản thân cuộc đời của Hồ Chí Minh ta thấy được người là một tấm gương sáng quên mình vì đại nghĩa “Cả cuộc đời tui chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân”. Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn kết với Người. Để đại đoàn kết với mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho mọi người. Bác Hồ quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự, người phục vụ gần gũi đến quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Ngoài sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của mọi tầng lớp. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới lại quan tâm gửi thư cho...