trongduc_dt
New Member
Download Tiểu luận Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay miễn phí
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh, nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư tưởng, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
- Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng nhân dân. Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là nói tới sức mạnh này.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của xã hội.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
những công cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế.Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hay gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do đó, khi bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con người đang sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thaũan đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì theo C. Mác "giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên".
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục…, nhưng C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con người hoạt động theo bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài chương trình di truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục, chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình, vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học gay gắt. Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi mặt xã hội. Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong sự phát triển của con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trường phái này là: Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ…
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của con người theo quan điểm di truyền học…
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người chỉ là mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm sinh.
Ngược lại quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy kết bản chất con người là một sản phẩm văn hoá của xã hội, của kinh tế và tước bỏ tính hữu cơ, tính tự nhiên của con người.
Trường phái "Triết học nhân bản hiện đại" quan niệm về bản chất của con người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập v