Ferrill

New Member
Download Khóa luận Tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đông Triều - Quảng Ninh phục vụ cho phát triển du lịch

Download Khóa luận Tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đông Triều - Quảng Ninh phục vụ cho phát triển du lịch miễn phí





Được Hai Bà Trưng tin cậy, nữ tướng Lê Chân đã luyện tập cho quân sĩ của mình trở thành đội quân hùng phát triển nhất tham gia đánh đuổi quân Đông Hán xâm lược. Từ Hải Phòng, bà đã chỉ huy nghĩa quân đánh lên phía Bắc, tụ nghĩa cùng đội quân của Hai Bà Trưng, đội quân của bà đã chiến thắng lớn. Một trong những trận đánh tiêu biểu của đội quân do nữ tướng Lê Chân lãnh đạo là trận đánh đánh trên đất Kinh Bắc (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Trận đánh diễn ra bất ngờ làm
quân giặc không kịp trở tay, xác giặc chất ngổn ngang. Trước sức mạnh của nghĩa quân, bọn quân đô hộ hốt hoảng chạy như ong vỡ tổ. Thái thú Tô Định vứt cả ấn tín, cạo râu, giả dạng thường dân chạy trốn về nước. Sáu mươi lăm thành trì được giải phóng vào ngày 15 tháng tám (âm lịch) năm 40, đất nước được độc lập. Sau chiến thắng, Trưng Trắc được trăm họ suy tôn làm vua, Trưng Nhị được tấn phong là Binh Khôi công chúa, nữ tướng Lê Chân được tấn phong là Thánh Chân côn g chúa, đứng sau vị trí của Trưng Nhị và đảm nhận trọng trách “ chưởng quản binh quyền” thống lĩnh toàn bộ quân đội, kiêm trấn thủ vùng ven biển. Với trọng trách được giao, bà đã dốc lòng chăm
lo củng cố biên ải và xây dựng lực lượng, tuyển thêm dân binh, mở lò tập tập võ, mở sới vật để tập luyện quân sĩ tại vùng Mai Động, chăm lo đời sống nhân dân, khuyến khích nghề nông. Bà luôn lấy đức để a n dân, cố kết được mối đoàn kết trong dân nên được nhân dân yêu mến quý trọng. Nhân dân hăng hái lao động sản xuất, đất nước no ấm thanh bình. Bà thực sự trở thành một nhà quân sự đầu tiên đã khéo léo kết hợp trong sản xuất, và chiến đấu tạo nên sức mạnh t oàn dân đánh giặc ngay
từ buổi đầu công nguyên và trong tiến trình lịch sử dân tộc.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

đến 23 tháng giêng hằng năm. Vào ngày hội tại đây diễn ra nhiều trò chơi dân gian,
nhiều đoàn tế từ khắp nơi đến cúng tế, dâng hương. Những năm gần đây chùa Nhuệ Hổ thu hút đông đảo du khách thập
phương đến dâng hương, thăm thú cảnh quan chùa.
Chùa được UBND tỉnh cấp bằng công nhận là di tích nghệ thuật, số 300/QĐ/UB, ngày 9/2/2001.
2.2.2. Đền
2.2.2.1. Đền An Sinh và lăng mộ vua Trần
Đông Triều là vùng đất cổ có tên gọi là An Sinh hay Yên Sinh. Đến đời vua Trần Dụ Tông (1341-1369), An Sinh đã
được đổi thành Đông Triều. Theo duy danh định nghĩa thì Đông Triều có nghĩa là “triều đình phía đông”, vả lại đất An Sinh
vốn là quê gốc của nhà Trần. Tổ tiên nhà Trần ở đây nối đời làm nghề đánh cá trên sông, sau đó lênh đênh phiêu bạc tới xã
Tức Mặc, phủ Thiên Trường thuộc đất Nam Định ngày nay. Chính vì gắn bó với quê gốc cho nên hầu như tất cả mộ phần,
lăng tẩm của vua Trần trước sau đều quy về An Sinh. Cũng vì gắn bó với quê gốc mà khi mới lập vương triều, Thái Tông
Trần Cảnh đã phong cho anh trai cả là Hiển Hoàng Trần Liễu làm An Sinh Vương và lấy các xã thuộc Yên Phụ, Yên
Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang làm đất thang mộc.
Nhà Trần có một truyền thống độc đáo là vua truyền ngôi cho con khi vua đang ở tuổi tráng niên và được tôn làm
thượng hoàng. Thực tế, các thượng hoàng đều mất tại cung vua ở Thăng Long, hay tại cung ở Nam Định, sau đó mới đưa
về an táng vĩnh viễn tại Yên Sinh Đông Triều. Việc này bắt đầu từ vua Anh Tông trở đi. Lúc đầu, Thượng hoàng Thái Tông
và sau đó là Thượng hoàng Thánh Tông đều an táng ở Thái Bình. Thái Tông có Chiêu Lăng, Thánh Tông có Dụ Lăng. Về
sau cũng có lăng Trần Nhân Tông, gọi là Đức Lăng, nhưng ở đó lại chỉ cất giữ một ít hạt xá lỵ của Nhân Tông thôi, vì ông
mất ở Am Ngoạ Vân và hoả táng tại đó. Đến khi quân Chiêm Thành đánh phá dữ dội, vì sợ chúng huỷ hoại lăng mộ nên nhà
Trần đã dời khu lăng ở Thái Bình về Yên Sinh Đông Triều.
Sau đó, Yên Sinh đã hình thành khu lăng mộ rộng lớn và tôn nghiêm có tên gọi là khu lăng Tư Phúc. Di cốt mỗi vua
được táng ở một lăng riêng, gồm có:
Lăng Đồng Thái (Thái Lăng)
Táng vua Trần Anh Tông, phụ táng Bảo Từ hoàng thái hậu, vợ Anh Tông, con gái Hưng Nhượng Vương Trần Quốc
Tảng. Đây là một lăng mộ rất điển hình. Theo tài liệu thư tịch cổ và văn bia dựng tại đền An Sinh thì từ thời Lê còn đến
ngày nay thì công trình lăng tẩm đầu tiên được xây dựng tại đây–Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Ngày 16/3/1320
Thượng hoàng Anh Tông băng tại Trùng Quang, phủ Thiên Trường, rước linh cữu vào cửa tường phù, quàn tại cung Thánh
Từ”. “Ngày 12 tháng 12 năm 1320 táng Thượng hoàng vào Thái Lăng ở Yên Sinh”. Thái Lăng được xây dựng trên ngọn
một quả đồi (còn gọi là đồi Táng Quỉ) qui vuông mỗi bề 61m, phân thành ba lớp bao quanh. Lớp trong cùng là phần mộ
vuông mỗi cạnh dài 8m, lớp này cao trội hẳn lên, có một cửa ra vào ở hướng nam, các cửa đều có thành bậc rồng; một cửa
hướng đông và một cửa hướng tây, các cửa đều có thành bậc sấu đá. Đối diện với 3 cửa hướng nam là một điện tế lớn. Lớp
thứ ba bao bọc ngoài cùng như một hàng lang cho toàn bộ lăng, có lối ra vào ở 4 phía.
Đồng thời với việc xây dựng lăng, ở đây hoàng tộc còn cho xây dựng đền để làm nơi thờ tự đó là đền Thái. Đền Thái
ở trước khu vực Thái Lăng, trên một quả đồi( hiện gọi là Trại Lốc), diện tích xây dựng 1.200m2, kiến trúc kiểu chữ tam, hiện
nay đền chỉ còn dấu tích.
 Lăng Đồng Mục (Mục Lăng)
Mục Lăng được xây dựng năm 1357, là nơi an táng thượng hoàng Minh Tông. Trần Minh Tông tên húy là Trần
Mạnh, sinh ngày 21 tháng 8 năm Canh Tý (1300), con thứ tư của vua Anh Tông, mẹ là Chiêu Từ Hoàng Thái Phi (tháng 4
năm 1359 được truy tôn là Chiêu từ hoàng thái hậu). Ông làm vua từ năm 14 tuổi, ở ngôi 15 năm, làm Thượng hoàng 28
năm. Ông mất ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), thọ 58 tuổi, ngày 11 tháng 11 táng ở Mục Lăng. Mục Lăng nằm ở
chân đồi thuộc khu Khe Gạch, thôn Trại Lốc, xã An Sinh (phía trước Thái Lăng và gần đền Thái). Hình thức xây dựng Mục
Lăng cũng giống như Thái Lăng.Theo sách Trần triềù lăng tẩm đồ mạn ký thì Mục Lăng có 3 nền, (nền một ở trong rộng 2
trượng (6,60m) cao 2 thước (0,66m), cửa rộng 4 thước (1,32); nền thứ hai, đông tây dài 3 trượng (9,90m) rộng 2 trượng
(6,60m) cao 1 trượng (3,30); chiều nam bắc dài 3 trượng (9,90m) rộng 1 trượng (3,30m) cao 1 thước (0,33); nền thứ ba,
chiều đông tây dài rộng 1 trượng 5 thước (4,95), chiều nam bắc dài 6 trượng (1,98m) cửa rộng 4 thước (1,32m); bên ngoài
phía trái phải có hai nền mỗi nền dài 24 trượng 5 thước (79,20m) rộng 2 trượng 7 thước (8,91m) cửa rộng 4 thước (1,32m),
đều có lân đá thềm đá).
 Lăng Phụ Sơn (Phụ Lăng)
Phụ Lăng được xây dựng năm 1369 là nơi an táng linh cữu Trần Dụ Tông, ngày 25/5/1369 vua băng ở chính tẩm,
miếu hiệu là Dụ Tông. Trần Dụ Tông tên húy là Trần Hạo, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1336, con thứ 10 của vua Minh Tông,
mẹ là Hiến Từ hoàng hậu. Ông làm vua từ năm 6 tuổi, ở ngôi 28 năm. Hình thức xây dựng Phụ Lăng giống Thái Lăng và Mục
Lăng. Phụ Lăng Sơn tọa lạc tại xóm Mới, Thôn Bãi Dài xã Yên Sinh. Gồm công trình lăng tẩm và miếu thờ. Theo sách Trần
Triều thánh tổ các xứ địa đồ: Phụ Sơn Lăng có 3 nền. Nền thứ nhất dài 2 trượng, rộng 1 trượng 5 thước, cao 2 thước, mở 1
cưa. Nền thứ hai chu vi bốn mặt đều dài rộng 1 trượng, mở một cửa. Nền thứ 3 chu vi dài 6 trượng rộng 1 trượng 1 thước mở 9
cửa đều rộng 3 thước. Hai bên tả hữu là 2 nền đều dài 2 trượng 5 thước rộng 1 trượng 5 thước.
Lăng Ngải Sơn (Ngải Lăng)
Lăng tọa lạc nơi chân đồi thuộc khu Ao Bèo, thuộc Trại Lốc, xã An sinh. Là nơi ang táng của Vua Trần Hiến Tông.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “ Ngày 15 tháng 8 năm Mậu Thân (1344) táng vào An Lăng ở Kiến Xương”. Theo Trần Triều
lăng tẩm đồ mạn ký (Tu lý theo sắc lệnh năm Minh Mặng thứ 21-1840) thì trong là nền mộ dài 2 trượng 9 thước (9,57m),
rộng 8 thước (2,64) cao 1 trượng (3,30); thứ hai là tường gạch chu vi chân tường đều dài 4 trượng 5 thước (14,85) rộng 3
thước (0,99m); phía bên trái mộ là một trâu đá, một chó đá, hai người đá, hai voi đá, hai ngựa đá, hai hổ đá. Tuy nhiên qua
thời gian, lăng đã trở thành phế tích, năm 2002 Công ty Than Mạo Khê đã đầu tư kinh phí xay dựng miếu thờ trong tổng
diện tịch khoảng 0,1 ha gồm công trình miếu thờ, trụ biểu, sân vườn.
Nguyên Lăng
Di tích tọa lạc trên một quả đòi thấp nơi trung tâm thuộc thung lũng Khe Nghệ (núi Đốc Trại), xóm Bãi Đá, thôn
Bãi Dài, xã An Sinh. Trần Nghệ Tông là vua đời thứ tám nhà Trần. Ông lên ngôi năm 44, ở ngôi 3 năm, làm Thái Thượng
Hoàng 27 năm; mất ngày 5 tháng 12 năm 1394, thọ 74 tuổi, táng vào Nguyên Lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông. Di
cốt vua Giản Định đời hậu Trần cũng được đưa về an táng tại đây.Trong hệ thống lăng miếu vua Trần thì Lăng Trần Nghệ
Tông ở vào tình trạng bị hủy hoại nhiều nhất. Di vật tại đây chỉ còn chân tảng đế bia, m
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top