Download miễn phí Tìm hiểu một số động vật có tầm quan trọng trong kinh tế ở địa phương
Chăn nuôi gà nói riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung là nghề sản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi của tỉnh ta.
Tổng đàn gia cầm của tỉnh năm 2010 là 7.060.000 con; Trong đó đàn gà chiếm chủ yếu. Chăn nuôi gà chiếm 75% trong tổng đàn gia cầm hàng năm.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-02-25-tim_hieu_mot_so_dong_vat_co_tam_quan_trong_trong_k.hbXNsLbI9q.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-60985/Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phíTóm tắt nội dung tài liệu:
Nhóm 2 lớp 7b TRONG CHĂN NUÔI Tổng đàn gia súc của tỉnh: 1.089.000 con Bò: 262.000 con; Trong đó TRÂU: 32.500 con; Còn lại: Lợn, Dê, cừu … CHĂN NUÔI BÒ Hiện tại, ở Việt Nam (nói chung) và Đắk Lắk (nói riêng) có nhiều giống bò thịt. Phổ biến là giống bò ta, bà con thường gọi là bò Vàng. Chúng dễ nuôi, mắn đẻ và thích nghi rộng. Tuy nhiên, chúng có tầm vóc nhỏ, khối lượng không cao, tỷ lệ thịt xẻ thấp. Chủ trương của chúng ta là phải cải tạo đàn bò bằng việc Sind hoá. Ở Đắk Lắk bò được nuôi nhiều ở các huyện EaKar, Krông bông, Easup … CHĂN NUÔI GIA CẦM Tổng đàn gia cầm của tỉnh: 1.089.000 con Trong đó: Các đàn gà chiếm chủ yếu Còn lại: Vịt, ngan, ngỗng chiếm khoảng 15% Chăn nuôi gà nói riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung là nghề sản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi của tỉnh ta. Tổng đàn gia cầm của tỉnh năm 2010 là 7.060.000 con; Trong đó đàn gà chiếm chủ yếu. Chăn nuôi gà chiếm 75% trong tổng đàn gia cầm hàng năm. CHĂN NUÔI GÀ GÀ SAO Gà sao (Guinea Fowl) có nguồn gốc ở Mađagatxca, Gà sao có đặc điểm là bay giỏi như chim, lông màu xám đen, điểm các màu trắng nhạt, thân hình thoi, lưng hơi gù, đầu không có mào mà thay vào đó là các mấu sừng, các mấu sừng này tăng sinh qua các tuần tuổi. Da mặt và cổ gà sao không có lông, lớp da trần này có màu xanh da trời, dưới cổ có iếm thịt mỏng, chân không có cựa. -Gà Sao bay giỏi như chim. 2 tuần tuổi gà Sao đã có thể bay. Chúng có thể bay lên cao cách mặt đất từ 6-12m. Chúng bay rất khoẻ nhất là khi hoảng loạn. -Gà Sao cũng có nhu cầu tắm nắng, gà thường tập trung tắm nắng vào lúc 9-11h sáng và 3-4 giờ chiều. Khi tắm nắng gà thường bới một hố cát thật sâu rồi rúc mình xuống hố, cọ lông vào cát và nằm phơi dưới nắng. -Ở gà Sao không bộc lộ tập tính sinh dục rõ ràng ngay cả người chăn nuôi hàng ngày cũng khó phát hiện thấy. Gà Sao mái thì đẻ trứng tập trung, khi đẻ trứng xong không cục tác mà lặng lẽ đi ra khỏi ổ. Hiện này tại tỉnh ta gà Sao đang được phát triển ở các hộ chăn nuôi nhỏ tại huyện CưMgar và huyện Cư Kuin. Mang lại cho người dân thu nhập cao LỢN RỪNG -Lợn rừng có dáng thon, cao khoảng 65 - 70 cm. - Phần vai trước thường cao hơn chân sau làm cho hình dạng của lợn rừng vai cao mông thấp. Mông, bụng gọn, đuôi dài không bao giờ cong uốn lại như lợn nhà. -Hai vai và bên trên của 2 chân phía trước đều có u hay tấm mỡ sụn lồi ra thành chai cứng. Độ lớn và dày của u chai cứng hay tấm mỡ sụn này tăng theo tuổi. -Mặt lợn rừng dài, mõm nhọn, tai nhỏ dựng đứng ép sát đầu. Mắt to, lồi, màu đen, híp phần cuối đuôi mắt. -Mũi lợn rừng mềm nhưng mạnh khỏe phù hợp với cách kiếm ăn trong cuộc sống hoang dã của chúng là đào bới đất, dũi mô đất mới để đào củ, gốc cây, các côn trùng... Lợn rừng (Wild pig) vốn chính là thủy tổ của các giống lợn nhà hiện nay. Phẩm chất thịt thơm ngon, gần như không có mỡ, ít cholesteron và đặc biệt có da dầy, giòn ngậy. Lợn rừng có 4 răng nanh dài, mỗi bên mọc 2 cái. Lông của lợn rừng là kiểu lông nhám, cứng. Lỗ chân lông ở trên lớp da tạo thành búi, mỗi búi có 3 lỗ, mỗi lỗ có 1 sợi lông dài. Lợn rừng sinh trưởng chậm và đạt kích thước tối đa tùy theo từng giống, môi trường và tuổi. Tuổi thọ sinh lý của lợn rừng kéo dài từ 15 - 25 năm. Lợn rừng có nhiều kiểu vận động (bơi, chạy, nhảy, quỳ, bò,...) và phát được khoảng 10 loại âm thanh để liên lạc trong đàn. Chúng thường sống quây tụ thành bầy đàn với qui mô 5 - 20 con, cũng có lúc hợp nhóm thành bầy lớn 50 - 80 con. Tại Đắk Lắk đã có liên minh giữa Công ty TNHH NNH (chuyên sản xuất, kinh doanh gia súc) và 90 hộ nông dân của HTX nông lâm nghiệp - dịch vụ Trường Xuân (huyện Ea Kar). Với việc liên minh với nông dân, trang trại của công ty NNH sẽ đưa quy mô chăn nuôi từ 2.000 con heo rừng hiện nay lên 10.000 con vào năm 2015. CHỒN HƯƠNG -Chồn hương (có nơi còn gọi là cầy hương, chồn mướp, ngận hương). -Chồn hương trong tự nhiên sinh sống trong các khu vực rậm cỏ hay cây bụi thấp như nương rẫy ven suối, bụi rậm trong rừng, ven đồi… -Bản tính tự nhiên hoạt động và kiếm ăn vào ban đêm là chủ yếu (thường từ chập tối đến nửa đêm) và thường sống đơn độc. -Chồn hương là loài thú ăn thịt, ăn tạp cỡ nhỏ hay trung bình. Khi trưởng thành có thân hình thon dài trung bình từ 55-75 cm, cân nặng trung bình từ 2-5 kg. -Bốn chân thấp, ngắn, màu đen, có năm ngón. Đầu dài, mõm nhọn. Bộ lông màu xám vàng, xám đen, nâu thẫm hay xám sẫm. Hai tai và mõm hơi đen. Chồn hương, thường đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa đẻ từ 3-5 con. Thường đẻ trong hang tự đào hay các hốc cây, hang động nhỏ. Chồn hương con rất khỏe, ít bệnh tật…Con non sinh trong hang (chưa mở mắt và còn yếu) được con mẹ cho bú. Tuổi thọ trung bình trong tự nhiên khoảng 8-9 năn. Chồn hương bắt mồi (chim, chuột, rắn…) rất giỏi. Thức ăn chính là các loài động vật. Thức ăn ưa thích của Chồn hương là côn trùng, chuột, chim nhỏ và quả cà phê. Trang trại của ông Hoàng Mạnh Cường Hoàng Hoa Thám, thành phố Buôn Ma Thuột và Trang trại của ông Nguyễn Quốc Khánh (huyện Krông Pắk) nuôi hơn 200 con chồn hương Mục đích tạo ra cà phê chồn và bán thịt Thịt Chồn hương mềm, thơm, ngọt và ngon, cùng da và xương được dùng như một vị thuốc y học cổ truyền; Người ta cho rằng, dưới tác dụng lên men của các enzym trong dạ dày của chồn hương, hạt cà phê được hấp thụ bớt protein nên khi rang xay, cà phê ít đắng hơn, mùi vị cũng đặc trưng và rất lạ so với các loại cà phê thông thường; Chồn hương có giá trị kinh tế cao nên nguy cơ bị tận diệt là rất lớn. Số lượng trong tự nhiên đang giảm mạnh, cần được bảo vệ nghiêm ngặt và tổ chức chăn nuôi để phát triển vững bền loài Chồn hương. Tác dụng kinh tế của chồn hương NUÔI HƯƠU NAI Hươu vàng và nai là động vật hoang dã quý hiếm được thuần dưỡng, những tập tính ăn nghỉ phần nào đã thay đổi, nhưng tập tính hoang dã vẫn mang tính bảo thủ cao như nhút nhát, thận trọng và khó tiếp cận. hươu nai có thính giác, khứu giác rất phát triển để canh chừng nguy hiểm. Hươu vàng và nai có quá trình thay lông mỗi năm một lần theo mùa và màu sắc lông thay đổi theo mùa trong năm. Màu lông con đực đậm hơn con cái. *Nhung hươu là gì? Nhung hươu nai là sừng của hươu đực hay nai đực. Giá trị kinh tế -Theo Tây y, nhung hươu giúp tăng sức mạnh cơ bắp, sảng khoái tinh thần, vết thương mau lành, ăn ngủ tốt, lợi niệu và tăng hoạt động dạ dày - ruột, chuyển hóa tốt protid và glucid... -Theo y học cổ truyền Việt Nam, nhung có tác dụng bổ tủy, ích huyết; chữa các chứng hư tổn cơ thể, vô sinh, bệnh lậu, giúp khỏe gân xương, tăng tuổi thọ... Trong số 272 đơn vị đăng ký nuôi động vật rừng của tỉnh Đăk Lăk thì có đến 235 hộ nuôi nai tại xã Cư Ebuar, thành phố Buôn Ma Thuột. đàn nai của xã đã hơn 1.200 con. - Cơ thể voi: đồ sộ được đỡ trên 4 chân to sừng sững như cái cột. - Đầu: to có vòi và ngà. - Ngà voi: là do 2 răng cửa hàm trên biến thành, được dùng để trưng diễn, tự vệ và đào đất kiếm ăn. - Răng hàm: k...