nhox_love094
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN 2
1)Định nghĩa 2
2)Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân 2
3)Những đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam 3
II.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 4
2.1 Sự ra đời của giai cấp công nhân 4
2.2 Sự phát triển của giai cấp công nhân 5
III. THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY 9
1)Một vài nhận xét về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay 9
2) dáng về cuộc sống công nhân Việt Nam hiện nay 11
3)Tại sao họ bị đối xử như vậy? 13
IV. PHƯỜNG HƯỚNG THÚC ĐẨY 15
1)Trách nhiệm của công đoàn 15
2)Trách nhiệm của đảng và nhà nước: 17
3)Trách nhiệm của chính quyền địa phương: 20
4)Nhiệm vụ của người công nhân 21
KẾT LUẬN 22
Tài liệu tham khảo 23
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 1986 nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng và nhà nước ta đã lấy mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để hoàn thành mục tiêu đó, đẩy mạnh CNH-HĐH với chú trọng phát triến công nghiêp là nhiệm vụ trước mắt và hàng đầu.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta đang đứng trước những cơ hội lớn và cả những thách thức lớn. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay được Đảng ta xác định là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước cùng kiệt kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. Trong sự nghiệp CNH-HĐH to lớn đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định giai cấp công nhân làm nòng cốt trong lực lượng lao động, là đội quân tiên phong trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy việc nghiên cứu sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam là hết sức cần thiết giúp giai cấp công nhân lấy đó làm cơ sở lý luận phát triến và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. . . Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: “Tìm hiểu sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam từ 1986 đến nay”. Bài tiểu luận của em gồm 3 phần:
I. Khái niệm giai cấp công nhân
II. Sự ra đời và phát triển của gia cấp công nhân
III. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
IV. Phương hướng thúc đẩy giai cấp công nhân
Do thời gian và năng lực còn hạn chế nên em xin sự góp ý của thầy cô và các bạn dể bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
I. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1)ĐỊNH NGHĨA
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và cách sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
2)NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân , đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân ở Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản (Đảng Mác-Lênin).
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp công nhân.
Từ những đặc điểm vốn có đó, giai cấp công nhân mới có ba tính chất cơ bản là:
a) Tính tổ chức, kỷ luật cao.
b) Tính tiên phong (về cách sản xuất, về tư tưởng, về Đảng của nó).
c) Tính triệt để cách mạng.
3)NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù xâm lược, khiến cho ý chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được nâng lên gấp bội. Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân nước ta đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phong trào đấu tranh của công nhân từng bước trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn mạnh. Sự ra đời của Công đoàn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - là kết quả tất yếu của quá trình phát triển phong trào công nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý luận, tư tưởng, chính trị, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Đại đa số xuất thân từ nông dân cùng kiệt ra đô thị, vào các đồn điền, xưởng máy nhỏ… làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
Chủ yếu sống bằng sức lao động, nguồn thu nhập chính là tiền công và cũng có thể có cổ phần hay cổ phiếu.
Khi ra đời với trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống còn thấp, vì Việt Nam lúc đó chưa có nền công nghiệp hiện đại; chịu ảnh hưởng nặng nề của sản xuất nhỏ, tiểu nông.
Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với dân tộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
Sớm được giác ngộ cách mạng và thành lập Đảng tiên phong do Hồ Chí Minh - Người đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và Đông Dương - sáng lập và rèn luyện. Giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cáhc mạng Việt Nam từ khi có Đảng của nó. Hơn 70 năm qua, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc sống đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình độ văn hóa cơ bản, khoa học công nghệ và tay nghề; giác ngộ chính trị và mức sống tuy có khá hơn sau những năm dổi mới có kết quả, nhưng nhìn chung cũng còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1 SỰ RA ĐỜI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Giai cấp công nhân Việt Nam thật sự đã hình thành từ đầu thế kỉ XX. Nhưng nếu dùng khái niệm chính trị-xã hội học mà Ăng-ghen dùng thì tuy đã thành giai cấp, nhưng còn ở bước đầu, giai đoạn “ tự mình” hay “ tự phát”.
Phong trào công nhân nước ta phát triển trên các nền lịch sử bản thân giai cấp ấy và gắn rất chặt với các phong trào dân tộc. Tất nhiên, dù phát triển nhanh chóng đến đâu theo quy luật của lịch sử phong trào công nhân quốc tế, phong trào công nhân Việt Nam cũng phải trải qua hai giai đoạn khác biệt.
Chính những đặc điểm ấy, giai cấp công nhân nước ta nhanh chóng trưởng thành, chỉ trong hai thập kỉ đã hoàn thành “quá trình lịch sử” để chuyển từ tự phát sang tự giác và sớm thể hiện tính dân tộc và quốc tế trong sáng.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918 ): Các cuộc chiến tranh của giai cấp công nhân Việt Nam tuy mạnh, nhưng còn tản mạn và tự phát. Phần lớn các cuộc đấu tranh thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt. Đó là những cuộc đấu tranh : bỏ việc về quê, lãn công, đòi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân trên các tuyến đường sắt Hà nội- Lạng Sơn, Thiếc- Kẽm Cao Bằng, Gạch Yên Viên, Dệt Sợi Nam Định ... Song cũng có một số cuộc đấu tranh hoà vào phong trào dân tộc như ủng hộ nghĩa quân Yên Thế của Đề Thám, công nhân đã tham gia bắt cóc các tên thực dân có máu mặt ở Bắc Kỳ , giúp nghĩa quân có điều kiện “ thương lượng’ với kẻ thù. Trong cao trào yêu nước và Dân chủ 1925-1926: Công nhân đã tham gia các cuộc đấu tranh ở Sài Gòn. Như nhận xét của Đ/C Tôn Đức Thắng “Lúc đó, công nhân chúng tui đứng ở ngoài cửa toà báo Tiếng Chuông Rè mà ủng hộ”.Tình hình đã đổi khác kể từ khi Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập ( tháng 3-1919 ) và đặc biệt khi tổ chức Quốc tế Công hội đỏ ra đời ( 1921 ) thu hút phần lớn phong trào công nhân Quốc tế chống giới chủ tư bản, Công đoàn Vàng trong tay các Đảng xã hội dân chủ cải lương và cơ hội, thực sự khẳng định tính cách xã hội chủ nghĩa của phong trào... Cũng từ năm 1919, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã có tính cách quốc tế, tính giai cấp nâng cao: Đó là cuộc bãi công của công nhân thuỷ thủ trên tàu Sácnơ ở Hải Phòng ( cuối năm 1919 ), của công nhân và thuỷ thủ trên 8 tàu thuộc Hãng Hàng hải Pháp (tháng 3-1920)....Khi chính phủ cách mạng của Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu ( Trung Quốc) thực hiện chính sách “ Liên Nga, Liên Cộng, phù trợ công nông” thì chuyển biến của phong trào công nhân nước ta càng mạnh.Số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính cách chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công lớn, thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc với số lượt người tham gia lên đến ngót 32000 người. Nhìn chung, các cuộc bãi công từ năm 1925 đến năm 1929 đã thuần thục về chính trị và là một điều kiện quyết định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
2.2 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
- Điều đầu tiên có thể dễ nhận thấy là so với thời kỳ trước đây, số lượng công nhân trên thế giới tăng lên rất nhanh.
Xét trên quy mô toàn thế giới, những năm gần đây, trừ một số nước G7, hay xét rộng ra là các nước OECD là những nước đã hay đang chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, còn lại phần lớn các quốc gia vẫn còn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, số lượng công nhân trên thế giới vẫn đang tăng lên một cách tuyệt đối.
Nếu thống kê ta thấy, thời kỳ Mác Ăng ghen cuối thế kỷ XIX số lượng công nhân trên thế gới chỉ có khoảng trên 10 triệu thì đến đầu thế kỷ XX là 119 triệu, đến cuối thế kỷ XX đã tăng lên đến trên 660 triệu và đến nay số lượng GCCN khoảng trên 800 triệu (năm 2003).
- Thứ hai, kết cấu giai cấp công nhân cũng có những biến động:
Số lượng công nhân trong tổng số lao động làm thuê tăng lên. Nếu như năm 1950 tỷ trọng lao động làm thuê ở các nước tư bản trong tổng số dân cư chiếm 69% thì đến năm 1980 tỷ lệ này là 81,8%, hiện nay là 86 %. Trong đó ở các nước tư bản phát triển như sau: Anh là 79,6%, Mỹ là 77%, Canada 76,3%, Đức là 75 %.
Cơ cấu công nhân cũng biến đổi theo lĩnh vực ngành nghề.
Tác động của khoa học - kỹ thuật đã đưa đến sự thay đổi của cơ cấu kinh tế. Nếu giai cấp vô sản thế kỷ XIX được hình thành bởi 3 bộ phận là vô sản công nghiệp, vô sản hầm mỏ và vô sản công nghiệp, thì dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai cấp vô sản có mặt ở cả 3 lĩnh vực: Khu vực I (ngành nông lâm, ngư nghiệp), khu vực II (khai thác, chế tạo, xây dựng), khu vực III (ngành kinh tế dịch vụ và công nghệ cao).
Ngày nay giai cấp công nhân đang biến động mạnh theo hướng giảm trong từng ngành, từng bộ phận ở khu vực I, II và tăng ở khu vực III. Thể hiện:
Cơ cấu công nhân lao động ở các khu vực:
Nước Ngành nông lâm nghiệp Khai thác chế tạo dịch vụ, công nghệ cao
Mỹ 3% 28% 71%
Nhật 7% 34% 59%
Đức 4% 38% 58%
Anh 2% 29% 69%
Pháp 5% 29% 66%
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học-công nghệ, trình độ người lao động nói chung cũng được nâng lên đáng kể. Thể hiện ngay ở nước ta nhưng năm gần đây trình độ học vấn của công nhân đã tăng nhanh. Nếu như năm 1986 ta có khoảng 40% công nhân có văn hoá cấp PTTH thì đến nay số lượng đó là 70%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2005 chỉ 26%, năm 2006 khoảng 31%.
Ở các nước tư bản phát triển phần lớn công nhân có trình độ lành nghề. Chỉ có khoảng 10 % công nhân có trình độ thấp và không lành nghề.
Trong giai cấp công nhân hiện nay cũng có sự phân tầng mạnh mẽ. Giai cấp công nhân ở các nước tư bản hiện nay phân hoá thành 3 bộ phận:
Một bộ phận giai cấp công nhân hiện đại, có mức sống trung lưu, đây là bộ phận hữu cơ cấu thành lực lượng sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất chủ yếu ở các nước tư bản phát triển.
Bộ phận thứ hai là công nhân cùng kiệt khó: Việc làm không ổn định, lao động phổ thông, giản đơn, văn hoá thấp.
Bộ phận thứ ba là giai cấp công nhân vô gia cư: Có việc làm không ổn định.
Bộ phận thứ tư: Lao động nhâp cư, lực lượng này chủ yếu từ các nước ở châu Á và châu Phi di cư sang các nước tư bản phát triển.
Thứ ba, phải khẳng định rằng, hiện nay giai cấp công nhân hiện đại vẫn là lực lượng chủ yếu trong cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị ở các nước tư bản. Nội dung các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân tập trung vào những nôu dung: đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đặc biệt là đòi việc làm; đấu tranh chống chiến tranh, đòi hoà bình; đấu tranh bảo vệ môi trường, chống bóc lột, chống phân biệt chủng tộc.
Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân đã mở rộng và hoà vào cuộc đấu tranh của nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp trong xã hội, nhưng nhìn chung các cuộc đấu tranh không đặt ra vấn đề thay đổi chế độ chính trị. Điều này do nhiều nguyên nhân: Một mặt, do sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tạo ra sự hẫng hụt về nhận thức chính trị và đối tượng đấu tranh trong giai cấp công nhân. Mặt khác, hiện nay các nước tư bản, đặc biệt là các nước phát triển đã tiến hành điều chỉnh: nâng cao mức sống chung của toàn xã hội; đa dạng hoá các chế độ sở hữu, khuyến khích người lao động mua cổ phần; Cải cách quản lý, tăng thu nhập cho bộ phận cán bộ quản lý.
Về tình hình công nhân Việt Nam hiện nay:
Hiện nay, tổng số công nhân trong các doanh nghiệp đến giữa năm 2006 là 11,5 triệu trong đó: Doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, DN FDI là 1,2 triệu, Doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,96 triệu, cơ sở kinh doanh cá thể 5,29 triệu.
3)TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG:
Người công nhân sống ra sao, như thế nào, có ổn định không… là có phần không nhỏ của chính quyền địa phương. Đây là cấp sát dân nhất, gần dân nhất và cũng phải hiểu dân nhất. Nếu ở đây, đặc biệt là những nơi công nhân tập trung xảy ra tình trạng thiếu ổn định cục bộ thì “tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa” sẽ là tình trạng đáng tiếc mà ta cần xem xét.
Những việc làm của những lãnh đạo địa phương sẽ là những việc làm được công nhân để ý nhất chứ không phải việc làm của nhà lãnh đạo cấp cao. Ấy vậy mà ở những nơi đó họ thường thờ ơ với người dân trong khu vực và tối ngày chỉ là tiệc tùng và tiếp khách, điều này cũng tạo ra tâm lý chán trường của người dân đối với những người lãnh đạo. Vậy cán bộ cấp cơ sở cũng phải có những việc làm lành mạnh để “làm gương” cho giai cấp công nhân noi theo. Họ có thể tổ chức những buổi tọa đàm chuyên đề dành cho giai cấp công nhân khoảng 1 tháng 1 lần và tổ chức những buổi dã ngoại ít nhất 1 quý 1 lần, tất cả những điều đó phụ thuộc vào tùy điều kiện của từng địa phương nhưng những người lãnh đạo cấp cơ sở phải coi đó là trách nhiệm công việc mà họ phải làm. Ngoài ra cũng phải chú trọng đến giới công nhân là nữ, họ có một số “bất lợi” trong cuộc sống như mang thai, sức khỏe yếu hơn… Nên chính quyền cũng phải quan tâm đến những trường hợp như vậy, vì cán bộ là gốc công việc như Bác Hồ đã bảo từ trước nên tất thảy điều đó chính quyền địa phương phải quán triệt thực hiện. Muốn vậy họ phải là những người có tâm và có tài, tựu chung lại vẫn là đào tạo cán bộ ra sao cho xứng tầm.
4)NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI CÔNG NHÂN
Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn phải nỗ lực phấn đấu không ngừng. Mỗi công nhân, người lao động phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với giai cấp, với dân tộc trước những thời cơ lớn và thách thức gay gắt. Phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tác phong công nghiệp, quyết tâm vươn lên làm giàu cho mình, cho gia đình, góp phần làm giàu cho xã hội. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong từng tập thể và trong toàn bộ giai cấp, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi công nhân, người lao động phải thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc gia nhập, tham gia hoạt động công đoàn và xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh. Bởi chỉ có xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh thì mới thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tổ chức công nhân, viên chức, người lao động thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng. Không những tích cực tham gia công đoàn mà còn tham gia quản lý Nhà Nước với tư cách là công dân để thể hiện rõ khả năng lãnh đạo của giai cấp mình là để phục vụ lợi ích chính đáng của mình. Ngoài ra đòi hỏi phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình một cách đúng đắn, phải biết dạy bảo con cái, sẽ là thế hệ công nhân mai sau, những người tiếp tục lãnh đạo đất nước để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của những người công nhân ở đây tuy tạm thời chắp vá vì giáo dục phải là từ nhỏ mới có nền tảng, do đó, giáo dục những mầm xanh của giai cấp công nhân hiện tại để họ có thể trở thành công nhân xã hội chủ nghĩa, khi đó công nhân sẽ được coi như một nghề cao quý có thể ngẩng cao đầu với thiên hạ chứ chẳng bị bĩu môi bảo “nhìn mấy thằng công nhân kìa”. Công nhân hiện tại phải nhận thức rằng tương lai của những người công nhân xã hội chủ nghĩa sẽ rộng rất mở như tiền đồ của những kỹ sư, bác sĩ… Nên mọi người hãy cố gắng trau dồi về chuyên môn, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống… “Nếu có ai hỏi tui những người công nhân yêu nước như thế nào, thì tui trả lời rằng là họ vẫn đang hăng hái ngày đêm làm giàu cho Tổ Quốc.” Điều đó là điều chúng ta mong ước và chúng ta chắc chắn sẽ làm được!
KẾT LUẬN
Trong xã hội Việt Nam ngày nay,giai cấp công nhân đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,phấn đấu cho một đất nước ngày càng giầu đẹp.Để làm được điều đó không những Đảng ta mà toàn dân tộc trong đó giai cấp công nhân là nòng cốt phải tự mình phấn đấu,nâng cao tri thức tay nghề để có thế làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra.Bên cạnh đó cũng phải rèn luyện về tư tưởng,giữ vững lập trường chính trị,tránh bị các thế lực thù địch lôi kéo,tránh xa các tệ nạn xã hội ,góp phần làm xã hội ngày càng trong sạch,văn minh ,lịch sự.Phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp trong năm 2020 như đúng mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đặt ra,đưa nước ta lên một tầm cao mới.Trong thư gửi học sinh,bác Hồ đã nói rằng :”Dân tộc ta có được trở nên vẻ vang hay không,đất nước ta có được sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không,ấy là nhờ vào công học tập của các cháu” Câu nói vẫn còn nguyên giá trị ,và thế hệ thanh niên,đặc biệt là Sinh viên càng phải cố gắng hơn trong học tập,góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN 2
1)Định nghĩa 2
2)Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân 2
3)Những đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam 3
II.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 4
2.1 Sự ra đời của giai cấp công nhân 4
2.2 Sự phát triển của giai cấp công nhân 5
III. THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY 9
1)Một vài nhận xét về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay 9
2) dáng về cuộc sống công nhân Việt Nam hiện nay 11
3)Tại sao họ bị đối xử như vậy? 13
IV. PHƯỜNG HƯỚNG THÚC ĐẨY 15
1)Trách nhiệm của công đoàn 15
2)Trách nhiệm của đảng và nhà nước: 17
3)Trách nhiệm của chính quyền địa phương: 20
4)Nhiệm vụ của người công nhân 21
KẾT LUẬN 22
Tài liệu tham khảo 23
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 1986 nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng và nhà nước ta đã lấy mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để hoàn thành mục tiêu đó, đẩy mạnh CNH-HĐH với chú trọng phát triến công nghiêp là nhiệm vụ trước mắt và hàng đầu.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta đang đứng trước những cơ hội lớn và cả những thách thức lớn. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay được Đảng ta xác định là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước cùng kiệt kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. Trong sự nghiệp CNH-HĐH to lớn đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định giai cấp công nhân làm nòng cốt trong lực lượng lao động, là đội quân tiên phong trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy việc nghiên cứu sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam là hết sức cần thiết giúp giai cấp công nhân lấy đó làm cơ sở lý luận phát triến và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. . . Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: “Tìm hiểu sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam từ 1986 đến nay”. Bài tiểu luận của em gồm 3 phần:
I. Khái niệm giai cấp công nhân
II. Sự ra đời và phát triển của gia cấp công nhân
III. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
IV. Phương hướng thúc đẩy giai cấp công nhân
Do thời gian và năng lực còn hạn chế nên em xin sự góp ý của thầy cô và các bạn dể bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
I. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1)ĐỊNH NGHĨA
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và cách sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
2)NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân , đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân ở Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản (Đảng Mác-Lênin).
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp công nhân.
Từ những đặc điểm vốn có đó, giai cấp công nhân mới có ba tính chất cơ bản là:
a) Tính tổ chức, kỷ luật cao.
b) Tính tiên phong (về cách sản xuất, về tư tưởng, về Đảng của nó).
c) Tính triệt để cách mạng.
3)NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù xâm lược, khiến cho ý chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được nâng lên gấp bội. Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân nước ta đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phong trào đấu tranh của công nhân từng bước trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn mạnh. Sự ra đời của Công đoàn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - là kết quả tất yếu của quá trình phát triển phong trào công nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý luận, tư tưởng, chính trị, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Đại đa số xuất thân từ nông dân cùng kiệt ra đô thị, vào các đồn điền, xưởng máy nhỏ… làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
Chủ yếu sống bằng sức lao động, nguồn thu nhập chính là tiền công và cũng có thể có cổ phần hay cổ phiếu.
Khi ra đời với trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống còn thấp, vì Việt Nam lúc đó chưa có nền công nghiệp hiện đại; chịu ảnh hưởng nặng nề của sản xuất nhỏ, tiểu nông.
Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với dân tộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
Sớm được giác ngộ cách mạng và thành lập Đảng tiên phong do Hồ Chí Minh - Người đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và Đông Dương - sáng lập và rèn luyện. Giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cáhc mạng Việt Nam từ khi có Đảng của nó. Hơn 70 năm qua, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc sống đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình độ văn hóa cơ bản, khoa học công nghệ và tay nghề; giác ngộ chính trị và mức sống tuy có khá hơn sau những năm dổi mới có kết quả, nhưng nhìn chung cũng còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1 SỰ RA ĐỜI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Giai cấp công nhân Việt Nam thật sự đã hình thành từ đầu thế kỉ XX. Nhưng nếu dùng khái niệm chính trị-xã hội học mà Ăng-ghen dùng thì tuy đã thành giai cấp, nhưng còn ở bước đầu, giai đoạn “ tự mình” hay “ tự phát”.
Phong trào công nhân nước ta phát triển trên các nền lịch sử bản thân giai cấp ấy và gắn rất chặt với các phong trào dân tộc. Tất nhiên, dù phát triển nhanh chóng đến đâu theo quy luật của lịch sử phong trào công nhân quốc tế, phong trào công nhân Việt Nam cũng phải trải qua hai giai đoạn khác biệt.
Chính những đặc điểm ấy, giai cấp công nhân nước ta nhanh chóng trưởng thành, chỉ trong hai thập kỉ đã hoàn thành “quá trình lịch sử” để chuyển từ tự phát sang tự giác và sớm thể hiện tính dân tộc và quốc tế trong sáng.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918 ): Các cuộc chiến tranh của giai cấp công nhân Việt Nam tuy mạnh, nhưng còn tản mạn và tự phát. Phần lớn các cuộc đấu tranh thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt. Đó là những cuộc đấu tranh : bỏ việc về quê, lãn công, đòi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân trên các tuyến đường sắt Hà nội- Lạng Sơn, Thiếc- Kẽm Cao Bằng, Gạch Yên Viên, Dệt Sợi Nam Định ... Song cũng có một số cuộc đấu tranh hoà vào phong trào dân tộc như ủng hộ nghĩa quân Yên Thế của Đề Thám, công nhân đã tham gia bắt cóc các tên thực dân có máu mặt ở Bắc Kỳ , giúp nghĩa quân có điều kiện “ thương lượng’ với kẻ thù. Trong cao trào yêu nước và Dân chủ 1925-1926: Công nhân đã tham gia các cuộc đấu tranh ở Sài Gòn. Như nhận xét của Đ/C Tôn Đức Thắng “Lúc đó, công nhân chúng tui đứng ở ngoài cửa toà báo Tiếng Chuông Rè mà ủng hộ”.Tình hình đã đổi khác kể từ khi Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập ( tháng 3-1919 ) và đặc biệt khi tổ chức Quốc tế Công hội đỏ ra đời ( 1921 ) thu hút phần lớn phong trào công nhân Quốc tế chống giới chủ tư bản, Công đoàn Vàng trong tay các Đảng xã hội dân chủ cải lương và cơ hội, thực sự khẳng định tính cách xã hội chủ nghĩa của phong trào... Cũng từ năm 1919, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã có tính cách quốc tế, tính giai cấp nâng cao: Đó là cuộc bãi công của công nhân thuỷ thủ trên tàu Sácnơ ở Hải Phòng ( cuối năm 1919 ), của công nhân và thuỷ thủ trên 8 tàu thuộc Hãng Hàng hải Pháp (tháng 3-1920)....Khi chính phủ cách mạng của Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu ( Trung Quốc) thực hiện chính sách “ Liên Nga, Liên Cộng, phù trợ công nông” thì chuyển biến của phong trào công nhân nước ta càng mạnh.Số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính cách chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công lớn, thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc với số lượt người tham gia lên đến ngót 32000 người. Nhìn chung, các cuộc bãi công từ năm 1925 đến năm 1929 đã thuần thục về chính trị và là một điều kiện quyết định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
2.2 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
- Điều đầu tiên có thể dễ nhận thấy là so với thời kỳ trước đây, số lượng công nhân trên thế giới tăng lên rất nhanh.
Xét trên quy mô toàn thế giới, những năm gần đây, trừ một số nước G7, hay xét rộng ra là các nước OECD là những nước đã hay đang chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, còn lại phần lớn các quốc gia vẫn còn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, số lượng công nhân trên thế giới vẫn đang tăng lên một cách tuyệt đối.
Nếu thống kê ta thấy, thời kỳ Mác Ăng ghen cuối thế kỷ XIX số lượng công nhân trên thế gới chỉ có khoảng trên 10 triệu thì đến đầu thế kỷ XX là 119 triệu, đến cuối thế kỷ XX đã tăng lên đến trên 660 triệu và đến nay số lượng GCCN khoảng trên 800 triệu (năm 2003).
- Thứ hai, kết cấu giai cấp công nhân cũng có những biến động:
Số lượng công nhân trong tổng số lao động làm thuê tăng lên. Nếu như năm 1950 tỷ trọng lao động làm thuê ở các nước tư bản trong tổng số dân cư chiếm 69% thì đến năm 1980 tỷ lệ này là 81,8%, hiện nay là 86 %. Trong đó ở các nước tư bản phát triển như sau: Anh là 79,6%, Mỹ là 77%, Canada 76,3%, Đức là 75 %.
Cơ cấu công nhân cũng biến đổi theo lĩnh vực ngành nghề.
Tác động của khoa học - kỹ thuật đã đưa đến sự thay đổi của cơ cấu kinh tế. Nếu giai cấp vô sản thế kỷ XIX được hình thành bởi 3 bộ phận là vô sản công nghiệp, vô sản hầm mỏ và vô sản công nghiệp, thì dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai cấp vô sản có mặt ở cả 3 lĩnh vực: Khu vực I (ngành nông lâm, ngư nghiệp), khu vực II (khai thác, chế tạo, xây dựng), khu vực III (ngành kinh tế dịch vụ và công nghệ cao).
Ngày nay giai cấp công nhân đang biến động mạnh theo hướng giảm trong từng ngành, từng bộ phận ở khu vực I, II và tăng ở khu vực III. Thể hiện:
Cơ cấu công nhân lao động ở các khu vực:
Nước Ngành nông lâm nghiệp Khai thác chế tạo dịch vụ, công nghệ cao
Mỹ 3% 28% 71%
Nhật 7% 34% 59%
Đức 4% 38% 58%
Anh 2% 29% 69%
Pháp 5% 29% 66%
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học-công nghệ, trình độ người lao động nói chung cũng được nâng lên đáng kể. Thể hiện ngay ở nước ta nhưng năm gần đây trình độ học vấn của công nhân đã tăng nhanh. Nếu như năm 1986 ta có khoảng 40% công nhân có văn hoá cấp PTTH thì đến nay số lượng đó là 70%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2005 chỉ 26%, năm 2006 khoảng 31%.
Ở các nước tư bản phát triển phần lớn công nhân có trình độ lành nghề. Chỉ có khoảng 10 % công nhân có trình độ thấp và không lành nghề.
Trong giai cấp công nhân hiện nay cũng có sự phân tầng mạnh mẽ. Giai cấp công nhân ở các nước tư bản hiện nay phân hoá thành 3 bộ phận:
Một bộ phận giai cấp công nhân hiện đại, có mức sống trung lưu, đây là bộ phận hữu cơ cấu thành lực lượng sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất chủ yếu ở các nước tư bản phát triển.
Bộ phận thứ hai là công nhân cùng kiệt khó: Việc làm không ổn định, lao động phổ thông, giản đơn, văn hoá thấp.
Bộ phận thứ ba là giai cấp công nhân vô gia cư: Có việc làm không ổn định.
Bộ phận thứ tư: Lao động nhâp cư, lực lượng này chủ yếu từ các nước ở châu Á và châu Phi di cư sang các nước tư bản phát triển.
Thứ ba, phải khẳng định rằng, hiện nay giai cấp công nhân hiện đại vẫn là lực lượng chủ yếu trong cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị ở các nước tư bản. Nội dung các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân tập trung vào những nôu dung: đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đặc biệt là đòi việc làm; đấu tranh chống chiến tranh, đòi hoà bình; đấu tranh bảo vệ môi trường, chống bóc lột, chống phân biệt chủng tộc.
Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân đã mở rộng và hoà vào cuộc đấu tranh của nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp trong xã hội, nhưng nhìn chung các cuộc đấu tranh không đặt ra vấn đề thay đổi chế độ chính trị. Điều này do nhiều nguyên nhân: Một mặt, do sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tạo ra sự hẫng hụt về nhận thức chính trị và đối tượng đấu tranh trong giai cấp công nhân. Mặt khác, hiện nay các nước tư bản, đặc biệt là các nước phát triển đã tiến hành điều chỉnh: nâng cao mức sống chung của toàn xã hội; đa dạng hoá các chế độ sở hữu, khuyến khích người lao động mua cổ phần; Cải cách quản lý, tăng thu nhập cho bộ phận cán bộ quản lý.
Về tình hình công nhân Việt Nam hiện nay:
Hiện nay, tổng số công nhân trong các doanh nghiệp đến giữa năm 2006 là 11,5 triệu trong đó: Doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, DN FDI là 1,2 triệu, Doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,96 triệu, cơ sở kinh doanh cá thể 5,29 triệu.
3)TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG:
Người công nhân sống ra sao, như thế nào, có ổn định không… là có phần không nhỏ của chính quyền địa phương. Đây là cấp sát dân nhất, gần dân nhất và cũng phải hiểu dân nhất. Nếu ở đây, đặc biệt là những nơi công nhân tập trung xảy ra tình trạng thiếu ổn định cục bộ thì “tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa” sẽ là tình trạng đáng tiếc mà ta cần xem xét.
Những việc làm của những lãnh đạo địa phương sẽ là những việc làm được công nhân để ý nhất chứ không phải việc làm của nhà lãnh đạo cấp cao. Ấy vậy mà ở những nơi đó họ thường thờ ơ với người dân trong khu vực và tối ngày chỉ là tiệc tùng và tiếp khách, điều này cũng tạo ra tâm lý chán trường của người dân đối với những người lãnh đạo. Vậy cán bộ cấp cơ sở cũng phải có những việc làm lành mạnh để “làm gương” cho giai cấp công nhân noi theo. Họ có thể tổ chức những buổi tọa đàm chuyên đề dành cho giai cấp công nhân khoảng 1 tháng 1 lần và tổ chức những buổi dã ngoại ít nhất 1 quý 1 lần, tất cả những điều đó phụ thuộc vào tùy điều kiện của từng địa phương nhưng những người lãnh đạo cấp cơ sở phải coi đó là trách nhiệm công việc mà họ phải làm. Ngoài ra cũng phải chú trọng đến giới công nhân là nữ, họ có một số “bất lợi” trong cuộc sống như mang thai, sức khỏe yếu hơn… Nên chính quyền cũng phải quan tâm đến những trường hợp như vậy, vì cán bộ là gốc công việc như Bác Hồ đã bảo từ trước nên tất thảy điều đó chính quyền địa phương phải quán triệt thực hiện. Muốn vậy họ phải là những người có tâm và có tài, tựu chung lại vẫn là đào tạo cán bộ ra sao cho xứng tầm.
4)NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI CÔNG NHÂN
Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn phải nỗ lực phấn đấu không ngừng. Mỗi công nhân, người lao động phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với giai cấp, với dân tộc trước những thời cơ lớn và thách thức gay gắt. Phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tác phong công nghiệp, quyết tâm vươn lên làm giàu cho mình, cho gia đình, góp phần làm giàu cho xã hội. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong từng tập thể và trong toàn bộ giai cấp, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi công nhân, người lao động phải thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc gia nhập, tham gia hoạt động công đoàn và xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh. Bởi chỉ có xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh thì mới thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tổ chức công nhân, viên chức, người lao động thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng. Không những tích cực tham gia công đoàn mà còn tham gia quản lý Nhà Nước với tư cách là công dân để thể hiện rõ khả năng lãnh đạo của giai cấp mình là để phục vụ lợi ích chính đáng của mình. Ngoài ra đòi hỏi phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình một cách đúng đắn, phải biết dạy bảo con cái, sẽ là thế hệ công nhân mai sau, những người tiếp tục lãnh đạo đất nước để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của những người công nhân ở đây tuy tạm thời chắp vá vì giáo dục phải là từ nhỏ mới có nền tảng, do đó, giáo dục những mầm xanh của giai cấp công nhân hiện tại để họ có thể trở thành công nhân xã hội chủ nghĩa, khi đó công nhân sẽ được coi như một nghề cao quý có thể ngẩng cao đầu với thiên hạ chứ chẳng bị bĩu môi bảo “nhìn mấy thằng công nhân kìa”. Công nhân hiện tại phải nhận thức rằng tương lai của những người công nhân xã hội chủ nghĩa sẽ rộng rất mở như tiền đồ của những kỹ sư, bác sĩ… Nên mọi người hãy cố gắng trau dồi về chuyên môn, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống… “Nếu có ai hỏi tui những người công nhân yêu nước như thế nào, thì tui trả lời rằng là họ vẫn đang hăng hái ngày đêm làm giàu cho Tổ Quốc.” Điều đó là điều chúng ta mong ước và chúng ta chắc chắn sẽ làm được!
KẾT LUẬN
Trong xã hội Việt Nam ngày nay,giai cấp công nhân đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,phấn đấu cho một đất nước ngày càng giầu đẹp.Để làm được điều đó không những Đảng ta mà toàn dân tộc trong đó giai cấp công nhân là nòng cốt phải tự mình phấn đấu,nâng cao tri thức tay nghề để có thế làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra.Bên cạnh đó cũng phải rèn luyện về tư tưởng,giữ vững lập trường chính trị,tránh bị các thế lực thù địch lôi kéo,tránh xa các tệ nạn xã hội ,góp phần làm xã hội ngày càng trong sạch,văn minh ,lịch sự.Phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp trong năm 2020 như đúng mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đặt ra,đưa nước ta lên một tầm cao mới.Trong thư gửi học sinh,bác Hồ đã nói rằng :”Dân tộc ta có được trở nên vẻ vang hay không,đất nước ta có được sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không,ấy là nhờ vào công học tập của các cháu” Câu nói vẫn còn nguyên giá trị ,và thế hệ thanh niên,đặc biệt là Sinh viên càng phải cố gắng hơn trong học tập,góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: phủ nhận sứ mệnh giai cấp công nhân Việt Nam và trách nhiệm của Quân đội ta hiện nay, cơ cấu công nhân nước ta từ xưa đến nay, sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân việt nam, lịch sử hình thành xây dựng, phát triển của giai cấp công nhân việt nam, công đoàn việt nam và công đoàn quân đội, phong trào công nhân việt nam năm 1986 đến nay, giai cấp công nhân ở thời kỳ năm 1986 đến nay, tiểu luận sự phát triển của giai cấp công nhân việt nam
Last edited by a moderator: