strawberry_shortcake2702
New Member
Download Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng triết học trong tác phẩm Lút vích Phoi-Ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức miễn phí
Trong vấn đề đạo đức, theo Ăng-ghen, Phoi-ơ-bắc hoàn toàn duy tâm khi coi lòng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó nó phải là cơ sở của đạo đức. Và để thực hiện lòng mong muốn hạnh phúc đó, Phoi-ơ-bắc đòi hỏi phải có sự tự hạn chế hợp lý bản thân mình và tình yêu giữa người với người lại trở thành những quy tắc cơ bản của đạo đức. Bằng sự bóc lột giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp và sự bất bình đẳng xã hội, Ăng-ghen phê phán quan điểm về đạo đức của Phoi-ơ-bắc, “nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả, cả đối với thế giới hiện thực” và Ăng-ghen cho rằng: trong thực tế mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình và đều vi phạm đạo đức ấy. Như vậy, quan niệm về đạo đức của Phoi-ơ-bắc vẫn chưa thoát khỏi sự trìu tượng, vì ông hiểu con người một cách trìu tượng phi lịch sử, không thấy con người là sản phẩm của xã hội, của lịch sử và con người là chủ thể của hoạt động. Điều đó biểu hiện trong nhận xét rất chính xác của Ăng-ghen rằng, Phoi-ơ-bắc “bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người; song đối với ông, cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Ông không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng như về con người hiện thực”.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
thực hiện ý định đã có từ lâu của Mác và Ăng-ghen là đề xuất các quan điểm đối lập với những quan điểm tư tưởng của triết học cổ điển Đức. Ba năm sau khi Mác qua đời, Ăng-ghen cho rằng cần trình bày quan điểm của hai ông về chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc và chỉ rõ bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học do Mác và Ăng-ghen thực hiện. Việc đánh giá toàn diện triết học cổ điển Đức (tập trung vào Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc) được Ăng-ghen coi là một món nợ danh dự phải trả.Tác phẩm này được viết năm 1886, được Ăng-ghen dành nhiều cho vấn đề lịch sử triết học. Ông đã nghiên cứu hàng loạt các vấn đề cơ bản của lịch sử triết học, trong đó nổi bật là vấn đề đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học; phương pháp luận mác-xít về lịch sử triết học; động lực phát triển của tư tưởng triết học v.v…
2. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm có Lời tựa và 4 phần:
Trong lời tựa viết năm 1888, Ăng-ghen trình bày lý do của việc viết tác phẩm này.
Phần I: Ăng-ghen đánh giá lại triết học của Hêghen. Ông coi triết học Hêghen là đỉnh cao của triết học cổ điển Đức và là một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác. Trong khi đánh giá vai trò to lớn của phép biện chứng trong triết học Hêghen, Ăng-ghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong triết học này là mâu thuẫn giữa phương pháp biện chứng và hệ thống duy tâm siêu hình.
Phần II: Trên cơ sở phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăng-ghen đã chỉ ra đối tượng của lịch sử triết học mác xít là nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chỉ ra sự phụ thuộc của tư tưởng triết học vào thực tiễn xã hội và nhận thức khoa học tự nhiên. Đồng thời, ông cũng chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác, kể cả Phoi-ơ-bắc.
Phần III: Ăng-ghen tập trung phê phán tính chất không triệt để của triết học Phoi-ơ-bắc, thể hiện ở quan điểm duy tâm về vấn đề tôn giáo và đạo đức, đồng thờ ông cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó.
Phần IV: Tác phẩm đề cập một cách khái quát và hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời ông khẳng định rằng sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt trong sự phát triển của lịch sử triết học.
Như vậy, qua kết cấu tác phẩm, Ăng-ghen cũng muốn chỉ ra rằng, triết học Mác có tiền đề lý luận là triết học của Hêghen và triết học của Phoi-ơ-bắc, trong đó chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc là khâu trung gian giữa triết học của Hêghen và triết học Mác. Do kế thừa những giá trị triết học trước đó và do khái quát thực tiễn xã hội và nhận thức khoa hoc, triết học Mác là hình thức phát triển cao của lịch sử triết học.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG TÁC PHẨM
Trong tác phẩm “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăng-ghen đã trình bày các vấn đề cơ bản như sau:
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm này, Ăng-ghen đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vấn đề cơ bản của triết học, từ đó đi đến xác định một cách khoa học đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học và quy luật phát triển của triết học. Khái quát lịch sử triết học, Ăng-ghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là cả triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” Các Mác, Phri đích Ăngghen: Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà nội, 1984, tập VI, trang 372.
.
Theo Ăng-ghen, vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại, giữa tinh thần với tự nhiên cũng giống như bất cứ tôn giáo nào, có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ mông muội, thời kỳ mà con người không thể giải thích được bản chất của giấc mơ, nên đã có qan niệm về quan hệ của linh hồn với thể xác. Đây chính là cơ sở nhận thức luận của vấn đề cơ bản của triết học.
Ăng-ghen cũng chỉ ra hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học. Chính việc giải quyết mặt thứ nhất - giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và tự nhiên cái nào có trước, cái nào có sau, đã phân các nhà triết học thành hai phe đối lập: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Mặt thứ hai, đó là “tư duy của chúng ta có thể nhận thức được gọi là thế giới hiện thực không?... vấn đề đó được gọi là vấn đề tính đồng nhất giữa tư duy và tồn tại”. Khi khái quát lịch sử triết học, Ăng-ghen thấy rằng đa số các nhà triết học thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Song còn một số nhà triết học khác như Hium và Cantơ lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Ăng-ghen phê phán khuynh hướng bất khả tri luận đó và của cả phái Cantơ mới, phái Hium mới, ông viết: “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép ý ngông triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác là thực tiễn, tức thực nghiệm và công nghiệp”. Ăng-ghen đã đưa ra những phát minh khoa học để bác bỏ bất khả tri luận và cho rằng khi người ta nhận thức được “vật tự nó” và áp dụng một cách có hiệu quả thì “vật tự nó” sẽ chuyển thàh vật cho ta.
Trên cơ sở của việc phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăng-ghen xác định đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra xoay quanh vấn đề cơ bản của triết học.
Ăng-ghen cũng phê phán quan điểm duy tâm coi lịch sử triết học như là lịch sử phát triển kinh tế, xã hội; là sản phẩm của tư duy thuần tuý của nhà triết học. Trái lại, Ăng-ghen chỉ ra rằng: “cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên, hoàn toàn không phải chỉ là sức mạnh của tư duy thuần tuý, như họ tưởng tượng. Cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên thì chủ yếu là bước tiến mạnh mẽ, ngày càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công nghiệp”. Như vậy, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến vai trò của khoa học và công nghiệp trong sự phát triển của tư tưởng triết học. Khi khẳng định nội dung của triết học chịu sự quyết định của quá trình phát triển các quan hệ kinh tế - xã hội, Ăng-ghen cũng coi triết học là một trong những phương tiện quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp trong xã hội.
2. Đánh giá triết học Hêghen
Khi cho rằng Phoi-ơ-bắc bắt đầu từ triết học của Hêghen, sau đó đoạn tuyệt với nó, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăng-ghen đã đánh giá một cách khoa học triết học Hêghen. Trước hết, Ăng-ghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của triết học Hêghen, đó chính là mâu thuẫn giữa phép biện chứng với hệ thống triết học. Nếu phép biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại, hệ thống triết học của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đã dẫn Hêghen đến việc thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và thực tiễn lịch sử. Ăng-ghen viết: “Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo điều của hệ th...
Tags: vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Các Mác và Ăng ghen toàn tập, lút vich phoi ơ bắc, triết học của phoi ơ bách, phoi bắc và heghen, chủ nghĩa duy vật của phoi ơ bắc về tự nhiên, có quân điểm cho rằng phép biện chứng duy vật là phép cộng đơn giản giữa phép biện chứng của hêghen và chủ nghĩa duy vật của phoi ơ bắc quan điểm của anh chị về vấn đề này như thế nào, tác phẩm lút vic phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển đức, Có quan điểm cho rằng, phép biện chứng duy vật là phép cộng đơn giản giữa phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc, quan điểm của anh (chị) về vấn đề này như thế nào?