ngocf_collections
New Member
Download Tiểu luận Tìm hiểu về vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm miễn phí
MỤC LỤC
I, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm - 1 -
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - 1 -
2, Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự - 4 -
II, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm - 4 -
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - 5 -
2, Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự - 6 -
3, Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị - 7 -
III, Kiến nghị hoàn thiện pháp luật - 8 -
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
MỤC LỤCBÀI LÀM
Thực tế cho thấy quy định về đình chỉ là những quy định có vị trí quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Bởi lẽ đình chỉ được xem như một cách xử lí đặc biệt của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Để hiểu rõ hơn chúng ta có thể tìm hiểu về vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm.
I, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm
Theo quy định của BLTTDS (Bộ luật tố tụng dân sự 2004) hiện nay thì vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm gồm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và đình chỉ xét sử yêu cầu của đương sự.
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc toà án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Theo đó, sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại.
Điều 192 BLTTDS quy định về các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
- Nguyên đơn hay bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế.
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hay bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận, hay người khởi kiện không có quyền khởi kiện.
- Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hay nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án.
- Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án.
- Nguyên đơn đã được yêu cầu triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
- Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
- Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Trong đó trường hợp “Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận, hay người khởi kiện không có quyền khởi kiện” và trường hợp “Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định” đã được cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành tại mục II.10 Nghị quyết số 02//2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm của Bộ luật tố tụng dân sự”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS quy định: “Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lí và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 Bộ luật này”. Như vậy, quy định này đã viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Nói cách khác, trước khi Toà án cấp sơ thẩm thụ lí vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS thì Toà án phải trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lí do nào đó mà Toà án đã thụ lí rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình chỉ giải quyết vụ án.
Tìm hiểu các quy định của pháp luật thì không có một quy định cụ thể nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án. Song, khoản 1 Điều 192 BLTTDS có ghi rõ: “Sau khi thụ lí vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp...”; Khoản 2 Điều 210 BLTTDS quy định về thủ tục ra bản án và quyết định của Toà án tại phiên toà cũng có ghi: “Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hay đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên toà phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản”. Từ đó cho thấy đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được Toà án cấp sơ thẩm áp dụng từ sau khi Toà án thụ lí giải quyết vụ án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Hiểu khác đi, Toà án cấp sơ thẩm có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hay tại phiên toà sơ thẩm.
Về hình thức của đình chỉ giải quyết vụ án là Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với nội dung và mẫu văn bản được quy định tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.
Khoản 1 Điều 194 BLTTDS quy định: “Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hay đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó”. Vậy về thẩm quyền thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự đó. Tuy nhiên, Điều luật này không quy định rõ thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Mà theo quy định tại khoản 2 Điều 210 BLTTDS đã trình bày ở trên thì các quyết định tại phiên toà sơ thẩm, trong đó có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án. Vậy, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự đó, còn tại phiên toà sơ thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử.
Về hậu quả pháp lí của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đã được quy định cụ thể tại Điều 193 BLTTDS và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP. Theo đó, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật và làm ngừng lại hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự. Cùng với đó, đối tượng xét xử của Toà án trong vụ án dân sự là yêu cầu của các đương sự không được Toà án giải quyết và Toà án xoá tên vụ án dân sự trong sổ thụ lí.
2, Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự
Khoản 2 Điều 218 BLTTDS quy định về xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu ghi rõ: “Trong trường hợp có đương sự rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”. Vậy, nếu trong vụ án dân sự có nhiều đương sự đưa ra yêu cầu và trong đó chỉ có một hay một số rút yêu cầu, số còn lại vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ thì Toà án cấp sơ thẩm chỉ đình chỉ xét xử phần yêu cầu hay toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút. Ví dụ: Nếu trong vụ án dân sự có một nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu thì Toà án chỉ đình chỉ xét xử